Các phương tiện giao tiếp: ngôn ngữ & phi ngôn ngữ

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Phuong tien ngon ngu la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog để cập nhật kiến thức mới nhất.

148

Trong quá trình giao tiếp tất cả chúng ta phải sử dụng những phương tiện giao tiếp. Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà tất cả chúng ta dùng để làm thể hiện thái độ, tình cảm, quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao tiếp.

Bạn Đang Xem: Các phương tiện giao tiếp: ngôn ngữ & phi ngôn ngữ

Phương tiện giao tiếp vô cùng phong phú và đa dạng, nhưng tất cả chúng ta có thể chia chúng ra làm 2 nhóm chính: giao tiếp tiếng nói và giao tiếp phi tiếng nói. Việc phân chia này mang tính tương đối, trong thực tế chúng bổ sung, hòa lẫn vào nhau.

Xem thêm: Giao tiếp là gì? Vai trò, chức năng, phân loại

1. Phương tiện giao tiếp tiếng nói

Tiếng nói được xem là phương tiện giao tiếp tổng hợp và chủ yếu. Trong tiếng nói có ba phòng ban cơ bản là ngữ pháp, từ vựng và ngữ âm. Cấu trúc ngữ pháp thường phản ánh trình độ phát triển của dân tộc bản địa chủ thể tiếng nói đó. Trong phạm vi một xã hội, một dân tộc bản địa sự khác biệt về mặt từ vựng và ngữ âm giữa các thành viên được ghi nhận rất rõ ràng nét. Trong mỗi tiếng nói, một từ hay một tập hợp từ đều phải sở hữu một hay vài ba ý nghĩa nhất định. Ý nghĩa của tiếng nói có hai hình thức tồn tại: khách quan và chủ quan. Khách quan bởi vì nó không phụ thuộc vào thị hiếu, ý muốn của một thành viên nào. Ví dụ, không có bất kì ai dùng từ “cái bút” để chỉ “cái bàn” và trái lại. Hình thức tồn tại chủ quan của tiếng nói là sắc thái riêng trong sử dụng tiếng nói xủa mỗi thành viên, mỗi nhóm, mỗi địa phương…

Khi một người giao tiếp với những người khác, thì người này và người kia đều phải sử dụng tiếng nói (nói ra thành lời hoặc viết ra thành chữ) để truyền đạt, trao đổi ý kiến, tư tưởng, tình cảm lẫn nhau. Có vốn tiếng nói phong phú thì rất thuận tiện trong giao tiếp. Trong giao tiếp có khi vì một lý do nào đó, thậm chí là vì một thói quen, con người không nói đúng sự thực: anh ta nghĩ, cảm xúc, có ý định như vậy này nhưng lại nói và viết khác đi, phóng đại lên, giảm nhẹ đi, thậm chí là nói trái lại hoàn toàn… tức thị anh ta đã nói láo. Lúc này tiếng nói không chỉ là phương tiện và phương pháp để thông tin, diễn đạt, biểu lộ trung thực, thẳng thắn những điều con người hiểu biết, suy nghĩ và cảm xúc, mà còn là một phương tiện và phương pháp để con người che giấu, xuyên tạc sự thực, đánh lạc hướng giao tiếp.

Trong giao tiếp, tiếng nói thể hiện không chỉ ý nghĩ và tình cảm của con người mà còn biểu hiện trình độ học vấn, trình độ văn hoá và tư cách của con người.

Bằng tiếng nói, con người dân có thể truyền đi bất luận một loại thông tin nào, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả sự vật… Ở phương tiện này, sự giao tiếp thường dựa vào những yếu tố sau đây:

a, Nội dung tiếng nói:

Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Ở đây tất cả chúng ta cần lưu ý đến vai trò ý thành viên của tiếng nói trong giao tiếp. Một từ hay một tập hợp từ đều phải sở hữu một hay vài ý nghĩa nhất định. Ý nghĩa của tiếng nói có hai hình thức tồn tại: khách quan và chủ quan bởi vì nó không phụ thuộc vào thị hiếu, ý muốn của một thành viên nào. Chẳng hạn, không có bất kì ai dùng từ “cái tủ” để chỉ “cái cây” và trái lại. Tính chủ quan thể hiện tại vị trí, có những từ vô thưởng vô phạt, nhưng trong quá trình sử dụng gây ra những phản ứng, những cảm xúc tích cực hay tiêu cực nào đó. Đây đấy là ý thành viên của tiếng nói. Ví dụ: từ “ma tuý” so với người nghiện hút không gợi lên cảm giác tiêu cực như những người dân chay tịnh, ngăn nắp.

Ngay trong một nhóm người, thỉnh thoảng cũng sẽ có những qui định ý nghĩa riêng cho một số tập hợp từ. Tiếng “lóng” là một ví dụ. Mỗi thành viên, mỗi nhóm người từ cộng đồng địa phương đến thứ hạng dân tộc bản địa đều phải sở hữu những sắc thái riêng trong cách sử dụng tiếng nói. Hiểu được ý thành viên là cơ sở tạo nên sự đồng điệu trong giao tiếp, còn được gọi là khả năng đồng cảm.

b, Tính chất của tiếng nói:

Trong giao tiếp những tính chất của tiếng nói như nhịp độ, âm điệu, ngữ điệu… cũng đóng vai trò rất quan trọng. Có người mới trông vào “cái gì trông cũng được” nhưng khi họ thốt ra những tiếng chát chúa hay the thé làm ta “cụt hứng” Cũng luôn có người nhờ tiếng nói rét mướt, dịu dàng, quyến rũ làm cho những người nghe thiện cảm ngay, mặc dù dung mạo không lấy gì làm khả ái.

Trong những khi nói, tất cả chúng ta cần lưu ý tới ngữ điệu. Lời nói đã có được rõ ràng, khúc chiết hay là không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng. Nhờ cách nhấn giọng, người nói có thể làm cho những người nghe lưu ý đến những lời nói của mình. Muốn nhấn giọng cho đúng phải làm rõ mình nói những gì và suy nghĩ, đắn đo từng lời một. Biết nhấn mạnh vấn đề những lời quan trọng và để những lời nói phụ lướt đi.

Hai yếu tố khác có thể làm thay đổi ý nghĩa lời nói là cách uốn giọng và ngữ điệu. Trong lúc nói phải có những thời gian lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc khoan, lúc nói nhẹ, lúc gằn từng tiếng thì lời nói mới nổi trội lên

c, Điệu bộ khi nói:

Điệu bộ là những cử chỉ của thủ công và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói vừa nhìn chằm chằm, vừa nói vừa liếc… Thường điệu bộ phụ họa theo lời nói để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên, việc sử dụng điệu bộ khi nói cũng phải phù phù hợp với phong tục, tập quán, nền văn hóa truyền thống… Những cử chỉ, điệu bộ tự nhiên là đáng yêu và dễ thương nhất, đừng gò ép mình bắt chước điệu bộ của người này hay người khác.

SỨC MẠNH CỦA GIỌNG NÓI

Giọng nói của bạn nghe có đáng tin hay là không? Âm điệu trong giọng nói của bạn ra sao? Bạn hãy thử tiến hành một thí nghiệm như sau: bật máy thu thanh và thu thanh lại giọng nói của bạn khi muốn truyền tải một thông điệp mà bạn muốn gửi đến một người nào đó. Sau đó nghe lại giọng nói của bạn từ máy thu thanh. Bạn có nghe thấy giọng nói đó toát lên tính thuyết phục không? Âm điệu của giọng nói đó thể hiện sự tâm thành không hay chỉ là những lời nói sáo rỗng và vô cảm?

Với nhiều cách thức biểu hiện khác nhau trong tiết tấu, ngữ điệu, âm lượng và tình cảm, giọng nói và ngữ điệu của một người dân có thể thể hiện hai trạng thái đối lập. Nó có thể truyền tải đến người nghe sự quan tâm, chăm sóc và sự thông cảm, sự tâm thành, tự tín, sự sống động, nhiệt tình. Trái lại, nó cũng sẽ có thể truyền tải sự thờ ơ, hờ hững, buồn tẻ, khinh thường, sự chiếu cố, thương hại, sự vô cảm, nỗi sợ hãi, sự thờ ơ, mỏi mệt, uể oải.

Bạn hãy thử diễn đạt câu sau đây (hoặc tự mình nghĩ ra một câu tương tự):

“Cảm ơn cô đã hỗ trợ đỡ em, em sẽ cố gắng nỗ lực để học tốt hơn nữa!”.

Sau đó bạn thử nói một vài lần với những người bạn ngồi bên cạnh, hoặc qua điện thoại cảm ứng với một người bạn. Sau đó, bạn hỏi người nghe xem âm thanh từ giọng nói của bạn phát ra tạo cho họ cảm giác ra sao?

  • Nếu khách hàng nói với giọng túc tắc, giọng nói của bạn trở thành tẻ nhạt và thiếu đi sức sống.
  • Giọng nói của bạn ra sao khi chúng ta mỏi mệt? Kiên cố nó sẽ trở thành tẻ ngắt và không có cảm hứng.
  • Giọng nói của các bạn sẽ tạo ra cảm giác gì khi nó được thể hiện một cách diễn cảm? Có phải giọng nói này đã phát ra ý chí mạnh mẽ và tràn đầy nhiệt huyết?
  • Giọng nói của các bạn sẽ ra sao nếu được nói bằng cả sự tâm thành? Đó liệu có phải là chất thành thật trong tiếng nói của bạn không?
  • Giọng nói của các bạn sẽ ra sao nếu như bạn là người thân thiện? Sự rét mướt có tỏa ra từ mẩu chuyện mà bạn nói không?
  • Giọng nói của bạn ra sao khi chúng ta đang mỉm cười? Có phải bạn muốn truyền tải sự hí hước và hóm hỉnh qua giọng nói không?

Xem Thêm : Ck là gì, vk là gì? Tại sao viết tắt như thế trên Fb

Khi tập luyện bằng phương pháp nói qua điện thoại cảm ứng hãy đặt trước mặt bạn một chiếc gương – đó là phương tiện phản ánh trung thực hình ảnh và giọng nói của bạn. Thứ nhất, nó được xem như một vật dùng để làm nhắc nhở bạn hãy luôn mỉm cười khi trả lời điện thoại cảm ứng. Mặc dù nụ cười của họ người nghe không thể nhìn thấy được, nhưng người nghe có thể cảm nhận được nó. Khi chúng ta cười, những cơ trên cằm sẽ giãn ra và khiến bạn rơi vào một trong những trạng thái thư giãn và giải trí. Chính điều này sau này sẽ được truyền tải qua giọng nói của bạn, khiến nó trở thành thanh thoát, thân thiện và cởi mở. Song song mục tiêu thứ hai, hành động mỉm cười sẽ làm các cơ trên mặt và cằm hoạt động, khiến nó luôn vận động và chuyển đổi, là một cách tập thể dục để gương mặt của bạn trở thành nhẹ nhõm và tươi tỉnh hơn.

Nói theo một cách khác “những gì bạn nhìn thấy trong gương đấy là những gì mà người nghe sẽ cảm nhận được”.

Tiết tấu của giọng nói

Khi chúng ta muốn chuyển đến người nghe một thông điệp từ giọng nói, đừng bỏ qua yếu tố tiết tấu và ngữ điệu. Nó rất quan trọng để hiểu trong thông điệp mà bạn đưa ra, bạn đặt sự nhấn mạnh vấn đề ở đâu? Những từ mà bạn có ý nhấn trọng âm vào là gì? Cùng một câu có trật từ được sắp xếp giống nhau, sẽ có được ý nghĩa rất khác nhau khi chúng ta thay đổi ngữ điệu của giọng nói.

Bạn hãy xem xét câu nói sau đây, và thử xem việc thay đổi tiết tấu trong giọng nói sẽ làm nó trở thành có ý nghĩa ra sao: “Xin cảm ơn quý khách đã gọi điện. Chúng tôi xin vui lòng phục vụ quý khách”.

Chúng ta có thể đặt ngữ điệu của giọng nói vào từng từ khác nhau, và do này sẽ truyền tải đến người nghe những tình cảm và cảm xúc khác nhau. Những từ viết hoa là những từ bạn nhấn mạnh vấn đề trong câu nói của bạn: “XIN CÁM ƠN quý khách đã gọi điện. Chúng tôi xin vui lòng phục vụ quý khách”.

“Xin cảm ơn quý khách đã GỌI ĐIỆN. Chúng tôi xin vui lòng phục vụ quý khách”.

“Xin cảm ơn quý khách đã gọi điện. Chúng tôi xin VUI LÒNG phục vụ quý khách”.

“Xin cảm ơn quý khách đã gọi điện. Chúng tôi xin vui lòng PHỤC VỤ quý khách”.

“Xin cảm ơn QUÝ KHÁCH đã gọi điện. Chúng tôi xin vui lòng phục vụ quý khách”.

Nếu như bạn biết phát huy những thế mạnh trong giọng nói, người nghe sẽ cảm nhận được tình cảm, sự quan tâm và giá trị mà người ta có so với bạn. Vậy thì bạn hãy học cách thể hiện một giọng nói truyền cảm, vui vẻ và dễ thương; hãy học cách sử dụng tính hiệu quả thể hiện bằng tiết tấu và ngữ điệu; hãy học cách nhấn mạnh vấn đề cảm xúc.

2. Phương tiện giao tiếp phi tiếng nói

a, Nét mặt:

Trong giao tiếp, nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các dự án nghiên cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận và kinh tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về cá tính con người. Người sắc nét mặt căng thẳng thường là người dứt khoát, trực tính; người sắc nét mặt mềm mại ở vùng mồm thì hòa nhã, thân tình, biết vui đùa và dễ thích ứng trong giao tiếp.

Người ta thấy rằng các giám đốc quan trọng lúc tới văn phòng nên chịu thương chịu khó để nhận ra mọi người mà ông ta đi qua trên tuyến đường tới phòng riêng, với bất kỳ là một chiếc gật đầu, một nụ cười, một động tác rướn mày hay một tín hiệu nào khác đều cần phải kèm theo một giây phút xúc tiếp nhanh bằng mắt để nhận ra và bộc bạch sự lưu ý tới nhau. Nếu Giám đốc không làm như vậy mà lại dụng ý đường hoàng đi vào, không thèm nhìn trái, nhìn phải gì cả thì sẽ nhanh chóng gây nên những làn sóng kinh hoàng khắp văn phòng.

b, Nụ cười:

Trong giao tiếp người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình. Con người dân có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tỉnh, hồn nhiên, nhân từ, có cái cười chua chát, miễn cưỡng, có cái cười tán thành, thông cảm, nhưng cũng sẽ có cái cười giễu cợt, cười khinh bỉ… Mỗi điệu cười đều biểu hiện một thái độ nào đó, cho nên trong giao tiếp, tất cả chúng ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng người dùng giao tiếp để biết lấy được lòng dạ của họ.

c, Ánh mắt:

Dân gian có câu “hai con mắt là hành lang cửa số tâm hồn”, bởi lẽ cặp mắt là vấn đề khởi đầu cho tất cả mọi nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu, qua ánh mắt con người nói theo một cách lên nhiều thứ. Ánh mắt phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và ước nguyện của con người ra phía bên ngoài.

Trong giao tiếp, ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hóa” mẩu chuyện, biểu hiện sự lưu ý, tôn trọng, sự tán thành hay là phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí xã hội của mỗi bên. Người dân có vị thế xã hội cao hơn nữa thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói lẫn lúc nghe đến.

Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người dân có óc thực tế thường có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện, người nham hiểm, đa nghi có cái nhìn soi mói, lục lọi…

d, Các cử chỉ (điệu bộ)

Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu…), của bàn tay (vẫy chào, khua tay…), của cánh tay… Vận động của chúng có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp. Thật vậy, chuyển động của đầu có thể là “đồng ý” hay “không đồng ý”, của bàn tay là lời mời, sự từ chối, chống đối hay van xin…

Người ta cũng sẽ có thể dùng cử chỉ để tinh chỉnh cuộc giao tiếp, ví như một số vận động của tay và đầu có ý nhắc nhở người hội thoại nói nhanh, chậm, tạm dừng hay giảng giải thêm.

Thông thường muốn nhấn mạnh vấn đề hay tăng cường sự lưu ý, người ta sử dụng rộng rãi các điệu bộ, ý nghĩa của điệu bộ thường rõ rệt ít có thể giảng giải nước đôi. Hewer đưa ra giả thuyết rằng điệu bộ đã đi trước tiếng nói để dụng làm phương tiện thông tin giữa những người dân nguyên thủy và ngày này tất cả chúng ta còn giữ lại những phần của tiếng nói điệu bộ để đệm thêm vào cho lời nói của mình. Giữa cử chỉ và văn hóa truyền thống có quan hệ mạnh mẽ.

e, Tư thế:

Xem Thêm : Nàn Nạt Nghĩa Là Gì, Nghĩa Của Từ Nạt, Nạt Là Gì, Nghĩa Của Từ Nạt

Tư thế cũng là một trong những phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan mật thiết với vai trò, vị trí xã hội của thành viên. Thường thường, một cách vô thức nó bộc lộ cương vị xã hội mà thành viên đang đảm nhiệm. Ví dụ: tư thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau là tư thế của bề trên, của lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đầu về trước tựa hồ như lắng tai là tư thế của cấp dưới.

Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái ý thức thoải mái hay căng thẳng. Những tư thế để mở tay và chân tựa như tạo điều kiện kèm theo để tiếp cận, gần gụi cho những người hội thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hòa hợp.

Các thành viên có thiên hướng bắt chước tư thế của người khác. Member cũng sẽ có thể dùng việc thay đổi dáng điệu để gửi đi các thông điệp một cách cố ý, ranh mãnh.

f, Dung mạo:

Là những đặc điểm tự nhiên, ít thay đổi như tạng người cao hay thấp, mập hay ốm, mặt vuông hay dài, môi mỏng hay môi dày…, sắc da (trắng hay đen, xanh xao, vàng vọt hay ngăm ngăm…), và những đặc điểm thay đổi được như tóc, râu, trang điểm, trang sức quý, y phục…

Dung mạo có thể gây tuyệt hảo rất mạnh, nhất là lần trước tiên. Ví dụ: nam giới cao ráo, có vẻ mạnh khỏe, sẽ gây ra tuyệt hảo tốt hơn là những người dân thấp bé hay gầy guộc; một người “tốt tướng” thường được mọi người tôn trọng từ cái nhìn trước tiên.

Cách trang sức quý cũng nói lên nhiều cá tính, văn hóa truyền thống, nghề nghiệp của một thành viên. Cách ăn mặt cũng giúp tất cả chúng ta đoán được trạng thái tình cảm và các phẩm chất tâm lý của một người. Người mặc áo rực rỡ thường có tâm trạng vui vẻ, sảng khoái. Người luôn mặc quần áo sáng màu là người thích giao du, hướng ngoại.

Cách ăn mặc cũng phản ánh nghề nghiệp, vị thế, lứa tuổi. Các nghề có đồng phục đặc biệt quan trọng biểu hiện quyền lực, vị trí xã hội. Ví dụ: đồng phục không quân, thủy quân thường gây tuyệt hảo mạnh với giới trẻ.

g, Khoảng chừng cách giao tiếp:

Khoảng chừng cách giữa hai người giao tiếp nói lên mức độ quan hệ giữa họ. Người thân trong gia đình đứng gần sát nhau. Bè lũ thân thiết có thể ngồi gần nhau, còn so với người lạ hay mới quen thì ta thường giữ một khoảng tầm cách nhất định.

Việc bố trí không gian giao tiếp cũng là một vấn đề được giới nghiên cứu để ý. Muốn tạo một không khí dân chủ, thoải mái người người ta thường bố trí ngồi theo bàn tròn để không có bất kì ai có vị trí trung tâm.

Sử dụng không gian là một hình thức truyền tin. Về cơ bản tất cả chúng ta thường xích lại gần những người dân mà tất cả chúng ta thích và tin, nhưng lại tránh xa những người dân tất cả chúng ta sợ hoặc không tin. Nhà nhân loại học Hall đã chứng minh rằng có bốn vùng xung quanh mỗi thành viên:

  • Vùng mật thiết (0-0,5m) vùng này chỉ dành riêng cho những người dân cực kỳ thân thiết như cha, mẹ, vợ, chồng, con, người yêu, bè lũ rất thân.
  • Vùng thành viên (0,5m-1,2/1,5m) dùng cho những người phải rất quen đến mức thấy thoải mái.
  • Vùng xã hội (1,2/1,5m-3,5m) dùng cho những người chưa quen biết nhiều, người lạ mới gặp lần đầu.
  • Vùng công cộng (3,5m+) gặp chung với nhiều người. Các thành viên đứng ở vùng này sẽ không còn là một những người dân phải gặp riêng nữa.

Khoảng chừng cách nêu trên không phải là cứng nhắc mà sẽ thay đổi tuỳ theo dân tộc bản địa, theo vùng và theo từng thành viên. Người ta đã và đang nhận thấy người dân ở vùng nông thôn không gian rộng lớn và thưa người dân có thiên hướng giãn khoảng tầm cách ra xa hơn còn người dân ở các thành phố lớn chật chội và đông đúc có tầm khoảng không giao tiếp hẹp hơn.

Đi kèm với không gian giao tiếp các thành viên có thiên hướng xác định lãnh thổ của riêng mình bằng phương pháp hình thành các bức vách nhỏ có thể bằng hoa lá cây cảnh, tủ đựng hồ sơ, hoặc các dấu ấn để khắc ghi lãnh thổ bằng các đồ vật.

Scheflen đưa ra lời khuyên về phong thái chọn dịp để trò chuyện xen ngang tại những buổi tiếp đón và tiệc thết đãi. Nếu hai người đang nói chuyện mà nhìn thẳng vào mặt nhau thì họ sẽ không còn hoan nghênh sự ngắt lời; nếu họ nhìn nhau theo một góc 900 thì có thể họ đang mong bị ngắt quãng; và nếu góc này còn to nhiều hơn thì họ đang cầu xin cứu giúp họ.

Sommer và Cook thì chứng minh rằng, những người dân chuẩn bị sẵn sàng cạnh tranh, thương thuyết hoặc cãi lý với nhau sẽ ngồi đối diện nhau ở hai bên bàn, còn những người dân đang hy vọng hợp tác với nhau thì ngồi cạnh nhau là thích hợp hơn; Vị trí được ưa thích hơn trong những khi đàm luận là để hai bên ngồi thành góc 900 với nhau.

h, Những hành vi giao tiếp đặc biệt quan trọng:

Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay… Những phương tiện này gọi là đặc biệt quan trọng vì trong những quan hệ đặc biệt quan trọng ta mới sử dụng chúng. Chẳng hạn, không phải gặp ai ta cũng sẽ có thể ôm hôn được; hoặc ở nước ta, người lớn xoa đầu trẻ em chứ không được phép trái lại.

Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người so với nhau: có cái bắt tay thắm thiết, có cái bắt tay lỏng lẻo, có cái bắt tay gọn ghẽ, có cái bắt tay lúng túng…

i, Đồ vật:

Khi giao tiếp người ta cũng hay dùng những đồ vật nhất định như: bưu ảnh, bưu thiếp, hình, tặng hoa, tặng quà, đồ lưu niệm… Tất cả những cái đó cũng đều phải sở hữu ý nghĩa trong việc thiết lập quan hệ, biểu hiện tình cảm, thái độ giữa những người dân giao tiếp với nhau.

Ở trên tất cả chúng ta đã tìm hiểu một số phương tiện giao tiếp phi tiếng nói. Cần chú rằng phần lớn việc sử dụng các phương tiện phi tiếng nói chịu tác động ảnh hưởng rất lớn của tương đối nhiều yếu tố văn hóa truyền thống, đặc điểm dân tộc bản địa, phong tục, tập quán. Chẳng hạn, so với người Bungary và Thổ Nhĩ Kỳ lắc đầu là tỏ vẻ đồng ý, còn ở Việt Nam thì trái lại. Những nước Arập, Mỹ latinh, Nam Âu thường đứng gần nhau và dùng ánh mắt nhiều hơn khi nói chuyện. Nhưng trái lại, những người dân Ấn Độ, Pakixtan, Nhật Bản, Bắc Âu thường đứng cách xa hơn và ít đụng chạm, ít nhìn thẳng vào mắt nhau hơn khi nói chuyện.

Tiến sĩ tâm lý Albert Mehrabian đưa ra nguyên tắc 7%-38%-55%. Theo nguyên tắc này thì một giao tiếp thông thường gồm có 55% là các hành vi không lời như tiếng nói thân thể và nét mặt; 38% là giọng nói, gồm có âm lượng, sắc điệu, ngữ điệu cũng như chất giọng; và chỉ có 7% là câu chữ được sử dụng.

Xem thêm:

  • Các Kỹ năng giao tiếp cơ bản
  • Quy tắc 7-38-55 trong giao tiếp (Mehrabian )

You May Also Like

About the Author: v1000