Lục là sáu, căn là giác quan, Lục căn là sáu giác quan của con người, gồm có: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn, tương ứng với Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Sáu căn có đối tượng người sử dụng xúc tiếp riêng, gọi là trần, vậy nên Lục trần là sáu trần, gồm có: Sắc trần (Cảnh vật), Thanh trần (Tiếng động), Hương trần (Mùi hương), Vị trần (Mùi vị), Xúc trần (Cảm xúc ở thân) và Pháp trần (Cảnh ở trong tâm).
Khi Lục căn xúc tiếp với Lục trần, tức là: Mắt thấy được hình ảnh, mũi ngửi được mùi thơm, lưỡi nếm được chất đắng cay, tai nghe được to nhỏ, thân cảm thấy nóng lạnh và còn ý có suy nghĩ phân biệt. Chính vì sự phân biệt, thấy biết và suy đoán đúng sai này được gọi là thức. Do đó Lục thức gồm có: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.
- Tam giới là gì.
- Tham sân si là gì.
- Thập thiện nghiệp là gì.
- Chánh kiến tà kiến.
- Hội Long Hoa là gì.
- Thực sự về hạn Tam tai.
- 10 Điều quan trọng Phật tử tại gia cần phải biết.
Lục Căn, Lục Trần và Lục Thức
Lục căn, Lục trần và Lục thức còn gọi là mười tám giới phân biệt. Chúng hình thành nên phiên bản ngã của mọi người. Cái chấp ngã của ta được tạo dựng và huân tập nơi tạng thức từ vô thỉ kiếp đến nay. Cái ngã mà ta tưởng là “Ta” thực ra là giả dối. Nó tồn tại mãnh liệt, tác oai, tác quái và sai sửa khiến ta chìm trong vọng tưởng vô minh. Nó khiến ta vô thỉ kiếp nay trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
1. Lục Căn là gì.
Căn tức là nơi nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẩy nở, phát sinh. Lục căn ở đây tức là: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn.
- Nhãn căn: Tức là hai con mắt, phần tử để làm chỗ nương tựa cho việc nhận thấy của người được rõ ràng, khi xúc tiếp với cảnh vật chung quanh.
- Nhĩ căn: Tức là hai lỗ tai, phần tử làm chỗ phát sinh cho việc nghe biết của người được rõ ràng, khi xúc tiếp với tiếng động ở chung quanh.
- Tỷ căn: Tức là lỗ mũi, phần tử làm chỗ nương tựa cho việc ngửi biết được xác thực, khi xúc tiếp với những mùi như thơm, thối…ở chung quanh.
- Thiệt căn: Tức là cái lưỡi, phần tử làm chỗ nương tựa của việc nếm biết của người được rõ ràng khi xúc tiếp với những chất như chua, mặn v.v…ở ngoại cảnh.
- Thân căn: Tức là da phủ quanh thân người, phần tử làm cho nhận ra được cảm xúc, nóng, lạnh, cứng, mềm của những vật chung quanh.
- Ý căn: Tức là phần tử khiến cho sự phân biệt phát sinh, tức là thức thứ Bảy. Phần này rất tinh xảo thuộc về ý thức. Cho nên không hề có hình sắc như năm căn trước.
*
Trừ ý căn ra thì năm căn đầu là năm phần tử thuộc về thể chất nằm ở phía bên ngoài, dễ xúc tiếp với ngoại vật. Chúng có hình tướng to tứ đại hợp thành. Rất có thể thấy được, chỉ được, sờ mó được. Duy thức học liệt chúng về nội căn sắc pháp. Nội căn sắc pháp này hoàn toàn có thể phân tích ra làm hai phần: Phù trần căn và Tịnh sắc căn.
Phù trần căn là chỉ cho hình tướng thô phù hiện ra phía bên ngoài, như tròng mắt, vành tai, lưỡi đỏ v.v…Còn tịnh sắc căn là chỉ cho phần ẩn phục của năm căn, tức là phần ứng dụng, phần hoạt động và sinh hoạt, phần sống của năm căn.
Nói một kiểu rõ ràng giản dị và đơn giản hơn, tức là những dây thần kinh hệ của con người vậy. Phù trần thì thô thiển, tinh sắc lại tế ẩn. Nếu hai phần này rời nhau, năm căn sẽ vô dụng.
2. Lục Trần là gì.
Trần, nghĩa đen là bụi. Bụi thì nhơ nhớp luôn luôn luôn luôn dời đổi, lăng xăng, tụ tán không chừng. Nghĩa bóng, Trần tức là chỉ cho phần vật chất, cảnh vật chung quanh con ngươi. Sáu trần là: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần.
- Sắc trần: Là những gì có hình tướng, đường nét hình dáng, những gì mà mắt hoàn toàn có thể thấy được.
- Thanh trần: Là tiếng do vật hữu hình hay vô hình dung phát ra, tức là những tiếng mà tai nghe được.
- Hương trần: Là mùi do vật hữu hình hay vô hình dung bốc lên, tỏa ra, vật mà mùi ngửi được.
- Vị trần: Là chất trong vật hữu tình hay vô tình, vậy mà lưỡi nếm được.
- Xúc trần: Là những thứ mềm, cứng, trơn, nhám…của vật hữu tình hay vô tình, những vật mà thân xúc tiếp được.
- Pháp trần: Là những hình ảnh, sắc tố, khẩu vị.. trừu tượng của năm trần lưu lại sau thời điểm đã năm căn duyên, đó là cảnh bị duyên của ý căn.
*
Sắc tố, tiếng tăm, khẩu vị ở đây không phải là vật thật của ngoại cảnh mà chỉ là những hình bóng, âm vang…của ngoại cảnh sau thời điểm đã lọt qua năm giác quan, và hiện nay đang bị ý căn duyên.
Mọi người hoàn toàn có thể làm một tỉ dụ thô thiển sau này cho dễ hiểu: Sắc trần dụ như cảnh vật phía bên ngoài. Nhãn trần dụ như chiếc máy quay phim. Pháp trần dụ như những hình ảnh đã giữ vị trong cuốn phim. Ý căn dụ như người xem hình trong cuốn phim chiếu lên.
Rất có thể làm một tỉ dụ thứ hai sau này: Thanh trần dụ như những tiếng hát của một ca sĩ. Nhĩ căn dụ như chiếc máy thu thanh. Pháp trần dụ như cuốn băng nhựa đã thu thanh. Ý căn dụ như người nghe tiếng do chiếc máy phát ra.
3. Lục Thức là gì.
Thức là sự việc phân biệt, hiểu biết, suy đoán do sáu căn xúc tiếp với sáu trần mà phát sinh. Nó thuộc về tâm pháp (vô hình dung). Sáu thức là: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
- Nhãn thức: Là việc phân biệt, hiểu biết do nhãn căn xúc tiếp với sắc trần mà phát sinh.
- Nhĩ thức: Là việc phân biệt hiểu biết do nhĩ căn xúc tiếp với sắc trần phát sinh.
- Tỷ thức: Là việc phân biệt hiểu biết do tỷ căn xúc tiếp với hương trần mà phát sinh.
- Thiệt thức: Là việc phân biệt do thiệt căn xúc tiếp với vị trần mà pháp sinh.
- Thân thức: Là việc phân biệt, hiểu biết do thân căn xúc tiếp với xúc trần mà phát sinh.
- Ý thức: Là việc phân biệt, hiểu biết, phê phán do ý căn xúc tiếp với pháp trần mà phát sinh.
*
Mọi người hoàn toàn có thể làm một tỉ dụ ví dụ sau này cho dễ nhận: Sáu thức như một hội đồng giám khảo của cuộc thi thì về văn nghệ, nữ công và gia chánh. Hội đồng này gồm có sáu người: Một ông chủ toạ và năm hội viên tay nghề về năm ngành: Một người chuyên về sắc tố và hình ảnh. Một người chuyên về tiếng động. Một người chuyên về mùi hương. Một người chuyên về chất vị. Một người chuyên về xúc giác.
Năm hội hiên này sau thời điểm lấy tài năng tay nghề của tớ ra phân tích, phê phán rồi, liền trình sự nhận xét của tớ lên ông chủ toạ. Ông này thu góp toàn bộ những nhận xét của năm hội viên, làm tổng kết và tuyên bố thành phẩm của cuộc thi ấy. Ông chủ toạ này đó là ý thức hay là thức thứ sáu.
Sự liên hệ của lục Căn, lục Trần và lục Thức
Vẫn biết căn là một nội sắc, nhưng mọi người rất quan hệ mật thiết. Căn là phần dữ thế chủ động, có tài năng duyên được với trần, còn trần là phần tiêu cực “được duyên” với căn. Nhờ có căn phù trần và tịnh sắc, nên con người mới hoàn toàn có thể nhận ra những cảnh vật chung quanh trong sự sống hằng ngày.
Nếu không hề có căn, đương nhiên không hề có thức, thì con người không phải là con người. Họ không sáng tác, xây dựng, cải cách, tiến hóa, và toàn cầu này phải là toàn cầu “chết”, u ám không hề có ý nghĩa.
Nếu không hề có trần, con người cũng không sống nổi. Ngoại cảnh là trường hoạt động và sinh hoạt của con người. Nó dạy khôn dạy khéo cho con người trong cuộc sinh hoạt và làm cho con người dân có ý thức về cuộc sống đời thường của tớ.
Thức lại tác động vào căn và trần làm cho cuộc sống đời thường càng thêm tiến bộ, sung túc thịnh vượng.
Ba thứ này tác động lẫn nhau như cây quẹt, chất dẫn và đốm lửa. Sự liên quan này minh chứng một kiểu hùng hồn sự không độc lập của sắc pháp và tâm pháp, cả về phương diện cá thể lần phương diện tổng thể.
Sự giả dối của lục Căn, lục Trần và lục Thức
Mọi người thấy cái ngã không thể do tổng hợp của căn, trần và thức mà giành được một kiểu thuần nhứt. Ðến đây, mọi người sẽ đi sâu vào trong 1 tầng nữa: Quán sát xem cái ngã hoàn toàn có thể có trong một phần nào của căn, trần và thức chăng?
Sáu căn là ngã căn?
Trước tiên, mọi người hãy xét thực chất của sáu căn là gì? Đó là một khối xương da máu thịt, hợp lại sở hữu trật tự, có tổ chức, chứ không gì khác. Mà đã là thịt da, xương máu thì không hề có gì là chắc chắn, thuần nhất. Từ “khi trắng răng đến thuở bạc đầu”, thử xem con người đã mấy lần thay đổi. Và sau một trăm năm, thử hỏi thể xác ấy sẽ giữ lại gì, ngoài “nắm cỏ khâu xanh rì”?
Giả sử có một chiếc ngã ở sáu căn, thì thử hỏi: Nếu cái ngã ở nơi mắt, thì năm căn kia không phải là ngã. Nếu cái ngã ở nơi tai, thì năm căn kia không phải là ngã. Thứu tự xét cả sáu căn, mọi người không thể nói được cái ngã ở một phần nào trong sáu căn. Nếu nhận định rằng sáu căn đều là ngã, thì thành ra con người nhiều hơn nữa sáu cái ngã. Nói thế chắc không một ai xác nhận được.
Còn nếu nói rằng: Do sáu căn hòa hợp mà có cái ngã, thì với trái với khái niệm về cái ngã, là thuận nhất, bình ổn. Vả lại khi đã nhận định rằng cái ngã do nhiều thứ hợp lại, thì cũng phải xác nhận luôn luôn là cái ngã ấy là không thật, là giả hợp. Do đó, Duy thức học bảo “nhân vô ngã”.
Sáu trần là ngã căn?
Trần với căn không khác gì mấy. Căn dường như không tự tại trong cuộc tồn tại, thì trần làm thế nào tại vị. Giả sử, “ngã” nằm trong sắc, thì trên toàn cầu này phải không hề có sự đổi trắng, thay đen. Như hoa nở rồi tàn, hết ngày rồi đêm, bãi bể trở thành vườn dâu, cuộc thay đổi đã bày rành rành ra trước mắt.
Vậy “ngã” nằm trong thanh chăng? Cũng không hề có lý. Thanh không lúc nào tự nhiên mà có. Nếu có không do vật hữu tình phát ra, thì cũng do sự va chạm của những vật vô tình mà có. Như vậy, thanh rõ ràng là một pháp hữu vi, có tạo tác. Mà đã là hữu vi, thì thế nào thì cũng vô thường. Vả lại, vật sinh ra nó là sắc kia đã là vô ngã, vô thường, thì nó không thể nào thường, là ngã được. Cho tới hương, vị, xúc, pháp cũng đều là vô thường, vô ngã như sắc, thanh cả. Chúng chỉ như làn gió thoảng qua, như màn sương phảng phất; Đã vô hình dung lại cô động, nên sự vô ngã của chúng lại càng rõ rệt hơn sắc, thanh nhiều.
Sáu thức là ngã căn?
Như đoạn trên đã nói, thức là sự việc nhận ra do căn và trần đối nhau mà có. Ðiều ấy đã minh chứng rằng thức không thật có. Nói một kiểu giản dị và đơn giản thì Thức là vì căn và trần đối nhau mà thành. Nhưng nếu chia chẽ một kiểu rốt ráo theo duy thức học, thì thức sỡ dĩ giành được còn là một nhờ nhiều nhân duyên khác nữa. Ví như nhãn thức, sanh khởi được là nhờ chín duyên sau này:
- Không: là khoảng tầm trống không, gián đoạn giữa căn và cảnh vật.
- Minh: là ánh sáng soi chiếu bởi mặt trời, trăng, sao, hay đèn đóm.
- Căn: là nơi nương tựa của thức.
- Cảnh: là những sự vật mà căn duyên được.
- Tác ý: là sự việc mong muốn được thấy.
- Phân biệt y: là nơi nương để phân biệt, tức là ý thức, hay thức thứ sáu.
- Nhiễm tịnh y: là thức thứ bảy hay là tiềm thức.
- Căn phiên bản y: là thức thứ tám. Chủng tử: Bạn dạng năng sẽ tiến hành phát sinh.
Ðể có một ý niệm rõ ràng hơn về nhãn thức, ta giảng giải chín duyên trên ra như sau:
*
Khi mắt ta thấy một vật gì: Nó phải ở cách vật ấy gần hay xa (Không ). Trong khi thấy là ban ngày, hay đêm tối có trăng, sao, hoặc pha đèn (Minh). Sự thấy ây đương nhiên là phải từ con mắt mà có (Căn) và song song, lúc đó phải có vật gì mới thành sự thấy (Cảnh). Trước lúc thấy, ta đã làm được ý muốn ngó rồi (Tác ý). Tác ý đây lại do ý thức đã phát động trước (Phân biệt y). Ý thức lại phải nương thức thứ bảy, vì là căn của nó (Nhiễm tịnh y). Thức thứ bảy lại luôn luôn luôn luôn chấp thức thứ tám là ngã (Căn phiên bản y). Thức nó lại là nơi dung chứa những thức chủng tử. Chủng tử là cái nhơn chánh để tạo ra ra sự vật.
Xét từ trong đến ngoài, từ duyên đầu đến duyên chót, nhãn thức dường như không có mảy may gì là chơn thật cả. Những thứ kia như nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức cũng vậy cả, nhưng ít duyên hơn. Như nhĩ thức thì chỉ có tám duyên (vì không hề có Minh: nghe không cần phải có ánh sáng). Còn tỷ, thiệt và thân thức, thì chỉ bảy duyên (Vì không cần phải có Minh và Không). Ý thức thì chỉ có năm duyên là: Căn, cảnh, tác ý, căn phiên bản y, chủng tử.
Xem thế thì đủ rõ sáu thức đều là không thật, tức là cũng vô ngã như sáu căn và sáu trần. Vậy là, từ căn thân cho tới toàn cầu, gồm trong mười tám giới, đều không thật có, không thật ngã. Hành tướng do nhân duyên hòa hợp thì có, những thật thể thì trọn vẹn không.( Phật học phổ thông – HT Thiện Hoa)
Lục căn viên thông
Luc căn viên thông hay còn gọi là lục căn hỗ dụng, tức là việc sáu căn hoàn toàn có thể dùng thay lẫn nhau. Hòa Thượng Tuyên Hóa bảo: “Đừng theo đuổi sáu trần rồi cặp chúng với cái thấy, cái biết của tớ. Nếu quý vị không đuổi theo sáu trần, thì quý vị sẽ thấy như thể là không thấy và nghe như thể không nghe. Vì mình không biến thành {ám ảnh} bởi cảnh giới của sáu trần. Thì cái sáng suốt sẽ không còn theo căn. Nó không tiếp xúc với trần cảnh nên tánh sáng suốt liền hiển hiện. Cái biết (hư vọng phân biệt) không hề xuất hiện trong đó nữa. Tánh giác sáng suốt của chính phiên bản tâm mình không truy đuổi theo những căn.
Tuy nhiên, phiên bản tánh giác ngộ sáng suốt của tớ được tìm thấy ngay nơi cửa của sáu căn. Khi tánh giác phiên bản hữu tự hiển lộ, thì lục căn viên thông, tức sáu căn hoàn toàn có thể được sử dụng thay lẫn nhau. Điều nầy không thể có nếu quý vị còn dùng vọng minh và vọng giác. Điều nầy, Lục căn hỗ dụng chỉ xẩy ra khi mình dùng tánh sáng suốt sống động vốn có của phiên bản giác. Thế là sáu căn-mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý-có tác dụng qua lại. Mắt nói theo cách khác và tai hoàn toàn có thể thấy.
Lục căn viên thông: Không hề có mắt vẫn thấy
Có những vị đã làm được được lục căn hỗ dụng. Đó là A na luật đà. Quý vị có nhớ ngài không? Ngài là người bị mù khi nỗ lực không ngủ. A na luật đà là bằng hữu họ với Đức Phật, ngài là con vua Bạch Phạn. Ngài thích ngủ, và ngủ ngẫu nhiên lúc nào Đức Phật giảng pháp. Đức Phật trách mắng ông về thói quen nầy, Đức Phật nói rằng:
Nầy! Nầy! Sao còn ngủ?
Như loài trai sò kia
Ham ngủ một ngàn năm
Chẳng nghe được tiếng Phật.
Sau khoản thời gian bị quở trách như vậy, trong nỗ lực của nhiệt tâm, A na luật đà không ngủ suốt bảy ngày đêm. Sau cuối ngài bị mù vì mất ngủ. Đức Phật thấy thương xót nên mới truyền dạy cho ngài pháp tu Nhạo kiến chiếu minh xoàn tam muội. Nhờ tu pháp này, ngài chứng được thiên nhãn thông. Mắt trần của ngài bị mù, nhưng ngài trở thành đệ nhất thiên nhãn. Ngài hoàn toàn có thể nhìn thấy mọi vật rất rõ ràng ràng.
Quý vị không nên nghĩ rằng khai nhãn là tương tự như nhau trong mọi trường hợp. Có người thấy mọi vật rất rõ ràng ràng, và có người thấy không được rõ. A na luật đà thấy rõ ràng nhất trong toàn bộ. Ngài hoàn toàn có thể thấy tam thiên đại thiên toàn cầu nhƯ thấy một vật trong tay. Đấy là không hề có mắt mà vẫn nhìn thấy suốt.
Lục căn viên thông: Không hề có tai vẫn nghe
Đức Phật lại nhắc đến rồng Bạt nan đà không hề có tai mà vẫn nghe. Đấy là loại thần long bảo lãnh cho xứ Ma kiệt đà, chăm sóc cho việc mưa thuận gió hòa. Loài rồng nầy được người dân trong xứ quý mến, nên họ đặt tên là Upananda, Hán dịch là Thiện hoan hỷ.
Tuy vậy không hề có tai, nhưng loài rồng nầy hoàn toàn có thể nghe bằng râu mọc trên đầu. Thế nên A na luật đà không dùng mắt mà vẫn thấy. Rồng Bạt nan đà không dùng tai mà vẫn nghe. Đây đó là sáu căn hỗ dụng mà mọi người đang bàn đến.
Lục căn viên thông: Không hề có mũi vẫn ngửi được
Còn tồn tại Thần nữ Căng già không hề có mũi mà ngửi được mùi hương. Sông Hằng, sông Sindhu, sông Vakshu và sông Sutlej đều phát nguyên từ trên đỉnh núi Tuyết sơn thuộc dãy Hy mã lạp sơn. Thần nữ Căng già tức nữ thần của sông Hằng, vì sông phát nguyên từ hồ A nậu đạt trên đỉnh Tuyết sơn. Nữ thần nầy là chủ của những vị thần sông. Thần nầy không hề có mũi, nhưng hoàn toàn có thể ngửi được mọi thứ. Bởi bà dùng mắt để ngửi.
Lục căn viên thông: Không hề có thân vẫn biết xúc chạm
Thần Thuấn nhã đa không hề có thân mà vẫn biết xúc chạm. Thuấn nhã đa là thần Hư vô. Vị Thần hư vô nầy không hề có thân mà vẫn biết sự xúc chạm. Việc đó xẩy ra ra làm sao? Do hào quang quẻ của Như Lai ánh ra mà tạm hiện có thân, chứ thực chất của ông là gió, chứ không hề có thân thể.
Hào quang quẻ của Đức Phật tạo cho vị thần nầy tạm thời xuất hiện, dù vị thần nầy lặng không như gió và không hề có hình thể gì cả. Nhưng khi thần nầy xuất hiện trong ánh hào quang quẻ của Đức Phật, thì vẫn cảm nhận được những cảm xúc xúc chạm. Điều đó làm cho thần hư vô rất vui mừng, “Tôi thực sự không hề có thân, nhưng nay tôi đã làm được.” Mọi chúng sinh đều sợ bị mất thân mạng, thế nên những lúc được phép hiện thân, vị thần nầy rất hoan hỷ.” (Kinh Lăng Nghiêm lược giảng: HT Tuyên Hóa)
( Lục căn, Lục trần và Lục thức là gì )
Tuệ Tâm 2021.