Khoa học là gì? Đặc điểm, vai trò và Phân loại khoa học

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Khoa hoc la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

138

Khoa học là một hoạt động mang tính nghề nghiệp xã hội đặc thù, là hoạt động sinh sản ý thức mà sản phẩm của nó ngày càng tham gia mạnh mẽ và đầy đủ vào mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là sinh sản vật chất thông qua sự đổi mới hình thức, nội dung trình độ kĩ thuật, công nghệ và làm thay đổi chính cả bản thân con người trong sinh sản. Xuất phát từ đó xã hội yêu cầu tạo ra cho khoa học một hàng ngũ những người dân hoạt động chuyên nghiệp có trình độ tay nghề nhất định, có phương pháp và thao tác làm việc theo yêu cầu của từng nghành nghề khoa học.

Bạn Đang Xem: Khoa học là gì? Đặc điểm, vai trò và Phân loại khoa học

1. Khoa học là gì?

Theo từ nguyên, “khoa học” có nguồn gốc từ chữ Latin “scientia” có tức thị tri thức.

Khoa học là khối hệ thống tri thức, được tổ chức theo những nghành nghề và yên cầu sử dụng “phương pháp khoa học” . Khoa học có thể được phân thành hai nhóm lớn: khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

Khoa học được hiểu là một khối hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy về những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó giảng giải một cách đúng đắn nguồn gốc của những sự kiện ấy, phát hiện ra những mối liên hệ của tương đối nhiều hiện tượng kỳ lạ, trang bị cho con người những tri thức về quy luật khách quan của thế giới hiện thực để con người vận dụng vào thực tiễn sinh sản và đời sống.

Khoa học còn được hiểu là một hoạt động xã hội nhằm tìm tòi, phát hiện quy luật, hiện tượng kỳ lạ và vận dụng các quy luật ấy để sáng tạo ra nguyên tắc các các giải pháp tác động vào các sự vật, hiện tượng kỳ lạ, nhằm chuyển đổi trạng thái của chúng.

“Khoa học là khối hệ thống tri thức về mọi quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”

Mạng lưới hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử vẻ vang và không ngừng nghỉ phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra 2 khối hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.

Tri thức khoa học và tri thức kinh nghiệm

Khoa học có nguồn gốc từ thực tiễn lao động sinh sản, những hiểu biết thuở đầu được tồn tại dưới dạng kinh nghiệm.

– Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích luỹ một cách tình cờ trong đời sống hàng ngày nhờ đó con người hình dung được sự vật, biết phản ứng trước tự nhiên, biết ứng dụng trong quan hệ xã hội. Tuy chưa đi sau vào thực chất sự vật, song những tri thức kinh nghiệm làm cơ sở cho việc hình thành các tri thức khoa học.

Ví dụ: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”

– Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích luỹ một cách khối hệ thống và được nói chung hoá nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học. Nó không phải là kế tục đơn giản của tri thức kinh nghiệm mà là việc nói chung hoá thực tiễn sự kiện tình cờ, rời rạc thành khối hệ thống tri thức thực chất về các sự vật hiện tượng kỳ lạ. Các tri thức khoa học được tổ chức trong phạm vi các bộ môn khoa học. Khoa học ra đời từ thực tiễn và vận động, phát triển cùng với sự vận động, phát triển của thực tiễn.

Ví dụ: Ba định luật của Newton.

Ngày này, khoa học trở thành lực lượng sinh sản trực tiếp, thậm chí là nó còn vượt lên cả thực tiễn hiện có. Vai trò của khoa học ngày càng tạo thêm và trở thành động lực trực tiếp của việc phát triển kinh tế tài chính xã hội.

Tri thức khoa học là một quá trình nhận thức, tìm tòi, phát hiện các quy luật của việc vật, hiện tượng kỳ lạ và vận dụng các quy luật đó để tạo nên nguyên tắc các giải pháp tác động vào các sự vật hoặc hiện tượng kỳ lạ nhằm chuyển đổi trạng thái của chúng. Khoa học chỉ tìm thấy lý lẽ khi áp dung được những lý thuyết của mình vào thực tiễn một cách có hiệu quả.

Khoa học là một hình thái ý thức xã hội – một phòng ban hợp thành của ý thức xã hội. Nó tồn tại mang tính chất độc lập tương đối và phân biệt với những hình thái ý thức xã hội khác ở đối tượng người sử dụng, hình thức phản ánh và mang một chức năng xã hội riêng biệt. Nhưng nó có quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp với những hình thái ý thức xã hội khác, tác động mạnh mẽ đến chúng. Trái lại các hình thái ý thức xã hội khác ảnh hưởng tác động tới sự việc phát triển của khoa học, đặc biệt quan trọng khi đối chiếu với sự truyền bá, ứng dụng của tiến bộ khoa học vào sinh sản và đời sống.

Khoa học là một hoạt động mang tính nghề nghiệp xã hội đặc thù, là hoạt động sinh sản ý thức mà sản phẩm của nó ngày càng tham gia mạnh mẽ và đầy đủ vào mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là sinh sản vật chất thông qua sự đổi mới hình thức, nội dung trình độ kĩ thuật, công nghệ và làm thay đổi chính cả bản thân con người trong sinh sản. Xuất phát từ đó xã hội yêu cầu tạo ra cho khoa học một hàng ngũ những người dân hoạt động chuyên nghiệp có trình độ tay nghề nhất định, có phương pháp và thao tác làm việc theo yêu cầu của từng nghành nghề khoa học.

2. Ý nghĩa của khoa học

Người ta vẫn nói rằng khoa học là động lực xúc tiến sự phát triển xã hội, làm cho con người ngày càng văn minh hơn, nhân ái hơn, sống tốt hơn và vững tin hơn vào chính mình mình trong cuộc sống. Cụ thể những nội dung đó là:

  • Con người hiểu được tự nhiên, nắm được những quy luật chuyển đổi, chuyển hóa của vật chất, chinh phục tự nhiên theo quy luật của nó.
  • Con người nắm được những quy luật vận động của chính xã hội mình đang sống và vận dụng chúng để xúc tiến xã hội ấy phát triển nhanh chóng hơn.
  • Con người ngày càng có ý thức, càng thận trọng hơn trong việc nhận thức khoa học: không vội vã, không ngộ nhận, không chủ quan, tiến vững chắc đến chân lí của tự nhiên.
  • Khoa học chân chính chống lại những ý kiến sai trái (mê tín dị đoan dị đoan, phân biệt chủng tộc…).
  • Khoa học làm giảm nhẹ lao động của con người, cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ cuộc sống.

3. Lịch sử hào hùng phát triển của khoa học

Thời cổ đại, dụng cụ lao động sinh sản còn đơn giản, xã hội loài người còn sơ khai, những tri thức tích luỹ được chủ yếu là tri thức kinh nghiệm. Thời kỳ này triết học là khoa học duy nhất chứa đựng tích hợp những tri thức của khoa học khác nhau như: cơ học, tĩnh học, thiên văn học. Quá trình phát triển của khoa học diễn ra theo 2 xu hướng, xu hướng thứ nhất là việc tích hợp những tri thức khoa học thành khối hệ thống chung, xu hướng thứ hai là việc phân lập các tri thức khoa học thành những ngành khoa học khác nhau. Trong từng thời đoạn phát triển của lịch sử vẻ vang, tuỳ theo những yêu cầu phát triển của xã hội mà xu phía này hay khác nổi lên chiếm ưu thế.

Thời trung thế kỉ, Chủ nghĩa duy tâm thống trị xã hội, khoa học ở thời kì này bị giáo hội bóp nghẹt, nên khoa học chậm phát triển, vai trò của khoa học khi đối chiếu với xã hôi rất hạn chế, khoa học trở thành tôi tớ của thần học.

Thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa, khoảng tầm thế kỷ XV – XVIII, thời kỳ Phục Hưng, là thời kỳ tan rã của quan hệ sinh sản phong kiến, giai cấp tư sản nhảy vào việc xác lập vị thế của mình trên vũ đài lịch sử vẻ vang. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã xúc tiến sự phát triển của khoa học. Sự phát triển đã phá vỡ tư duy siêu hình thay vào đó là tư duy biện chứng; khoa họ có sự xâm nhập vào nhau để tạo thành môn học khoa học mới như: Toán – lý, hoá – sinh, sinh – địa, hoá lý, toán kinh tế tài chính,…

Thời kỳ cách mệnh khoa học kỹ thuật tiến bộ (từ trên đầu thế kỹ XX đến nay). Thời kỳ này cách mệnh khoa học và kỹ thuật phát triển theo hai hướng: Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nhận thức của con người trong nghiên cứu và kết cấu khác nhau của vật chất, khoa học đi sâu vào tìm hiểu thế giới vi mô và hoàn thiện các lý thuyết về nguyên tử, về điện, sóng, trường,… và nghiên cứu sự tiến hoá của vũ trụ. Chuyển kết quả nghiên cứ vào sinh sản một cách nhanh chóng song song ứng dụng của chúng một cách có hiệu quả vào đời sống xã hội.

Đặc điểm nổi trội của thời kỳ này là khoa học đã trở thành lực lượng sinh sản trực tiếp, trở thành tiền đề, điểm xuất phát cho nhiều ngành sinh sản vật chất mới. Song sự phát triển nhanh chóng của khoa học cũng làm phát sinh nhiều vấn đề như môi sinh, môi trường thiên nhiên, bảo vệ và khai thác tài nguyên,….Vì vậy cần quan tâm đầy đủ đế quan hệ giữa khai thác và tái tạo tài nguyên làm cho việc phát triển của khoa học gắn bó hài hoà với sự phát triển của môi trường thiên nhiên sống của con người.

4. Phân biệt khoa học, kỹ thuật và công nghệ

a/ Khoa học là khối hệ thống tri thức về mọi quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, về giải pháp tác động vào thế giới xung quanh, tới sự việc nhận thức và làm chuyển đổi thế giới đó là phục vụ cho lợi ích của xã hội.

Xem Thêm : Shopee Book Club là gì? Những lợi ích khi đăng ký thành viên

Một khoa học được thừa nhận khi đáp ứng được những tiêu chí:

Tiêu chí 1. Có đối tượng người sử dụng nghiên cứu

Đối tượng người sử dụng nghiên cứu là bản thân sự vật hoặc hiên tượng được đặt trong phạm vi quan tâm của cục môn khoa học. Một sự vật hay hiện tượng kỳ lạ cũng luôn tồn tại thể là đối tượng người sử dụng nghiên cứu của nhiều bộ môn khác nhau. Nhưng mỗi khoa học nghiên cứu trên một khía cạnh khác nhau. Ví dụ con người là đối tượng người sử dụng nghiên cứu của tâm lý học, y khoa, xã hội học…

Tiêu chí 2. Có một khối hệ thống lý thuyết

Có khối hệ thống lý thuyết gồm những khái niệm, phạm trù, quy luật định luật, định lý, nguyên tắc… Mạng lưới hệ thống lý thuyết của một môn khoa học thường có hai phòng ban: Phòng ban riêng đặc trưng cho môn khoa học đó và phòng ban thừa kế từ các khoa học khác.

Tiêu chí 3. Có một khối hệ thống phương pháp luận nghiên cứu

Một bộ môn khoa học được đặc trưng bởi một khối hệ thống phương pháp luận: phương pháp luận riêng của khoa học đó và phương pháp luận xâm nhập từ các bộ môn khoa học khác.

Tiêu chí 4. có mục tiêu ứng dụng

Mỗi khoa học đều phải sở hữu những ứng dụng thực tiễn hay phục vụ cho việc hiểu biết nào đó.

b/ Kỹ thuật:

“Kỹ thuật là bất kì tri thức kinh nghiệm hoặc kĩ năng có tính chất khối hệ thống hoặc thực tiễn được sử dụng cho việc chế tạo sản phẩm hoặc để vận dụng vào quá trình sinh sản, quản lý hoặc thương nghiệp, công nghiệp hoặc các nghành nghề khác nhau trong đời sống xã hội”.

Ngày này, thuật ngữ kỹ thuật mang ý nghĩa hẹp hơn, nó chỉ những yếu tố vật chất và vật thể ví như máy móc thiết bị và sự tác nghiệp, vận hành của con người.

c/ Công nghệ

Công nghệ có một ý nghĩa tổng hợp và bao quát một trong những hiện tượng kỳ lạ mang đặc trưng xã hội: tri thức, tổ chức, phân công lao động, quản lý,… Vì vậy nói đến công nghệ là nói đến phạm trù xã hội, một phạm trù phi vật chất. Công nghệ gồm bốn phòng ban: kỹ thuật, thông tin, con người, tổ chức. Các nhà xã hội học xem xét công nghệ như một thiết chế xã hội quy định sự phân công lao động xã hội, tổ chức cơ cấu công nghệ và công nghiệp.

Có thể so sánh về mặt ý nghĩa khoa học và công nghệ (công nghệ đã được xác nhận qua thử nghiệm đã được kiểm chứng là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật thực hiện – tức thị qua thời đoạn nghiên cứu để nhảy vào thời đoạn vận hành ổn định, đủ tham dự khả thi về mặt kỹ thuật để chuyển giao cho con người sử dụng. So sánh các đặc điểm khoa học và trình bày trong cuốn “ phương pháp luận nghiên cứu khoa học” của Vũ Cao Đàm.

Bảng 1. So sánh những điểm của khoa học và công nghệ

STTKhoa họcCông nghệ1Lao động linh hoạt và sáng tạo caoLao động bị định khuôn theo quy định2Hoạt động khoa học luôn đổi mới, không lặp lạiHoạt động công nghệ được tái diễn theo chu kì3Nghiên cứu khoa học mang tính xác suấtĐiều hành công nghệ mang tính xác định4Có thể mang mục tiêu bản thânCó thể không mang tính tự thân5Phát minh khoa học tồn tại mãi mãi với thời gianSáng chế công nghệ tồn tại nhất thời và bị diệt vong theo lịch sử vẻ vang tiến bộ kỹ thuật6Sản phẩm khó được định hình trướcSản phẩm được định hình theo thiết kế7Sản phẩm mang đặc trưng thông tinĐặc trưng sản phẩm tuỳ thuộc vào đầo vào

Cũng phải nhấn mạnh vấn đề thêm rằng:

  • Khoa học luôn hướng tới tìm tòi tri thức mới.
  • Công nghệ luôn tìm tòi quy trình tối ưu.

5. Phân loại khoa học

Phân loại khoa học là chỉ ra những quan hệ tương trưng tương trợ giữa các ngành khoa học trên cơ sở những nguyên tắc xác định: là việc phân chia các bộ môn khoa học thành những nhóm bộ khoa học theo cùng một tiêu thức nào đó để nhận dạng cấu trúc của khối hệ thống tri thức, xác định vị trí của mỗi bộ môn khoa học trong khối hệ thống tri thức, song song lấy đó làm cơ sở xác định con phố đi đến khoa học: là tiếng nói quan trọng cho cuộc hội thoại về nghiên cứu khoa học, thông tin, tư liệu, phân ngành huấn luyện, tổ chức và quản lý khoa học, hoạch định chính sách khoa học…

– Phân loại khoa học cần tuân theo những nguyên tắc:

+ Nguyên tắc khách quan quy định việc phân loại khoa học dựa vào các đặc điểm của đối tượng người sử dụng nghiên cứu của từng bộ môn khoa học và quá trình vận động, phát triển theo từng bộ môn khoa học đó gắn với yêu cầu của thực tiên, không được tách rời khoa học với đời sống.

+ Nguyên tắc phân loại yên cầu phân loại khoa học phải theo tiến trình phát triển của đối tượng người sử dụng nhận thức của khoa học và mối liện hệ biện chứng, chuyển tiếp lẫn nhau giữa chúng.

– Tuỳ theo mức đích nhận thức hoặc mục tiêu sử dụng mà có rất nhiều cách thức phân loại khoa học. Một cách phân loại dựa trên một tiêu thức có ý nghĩa ứng dụng nhất định.

Trong lịch sử vẻ vang phát triển của khoa học có rất nhiều cách thức phân loại khác nhau:

Cách phân loại của Aristốt (384 – 322 thời Hi Lạp cổ đại) theo mục tiêu ứng dụng khoa học: có 3 loại: Khoa học lý thuyết gồm: Siêu hình, vật lý học, toàn học,…với mục tiêu tìm hiểu thực tiễn. Khoa học sáng tạo gồm tu từ, thư pháp, biện chứng pháp với mục tiêu sáng tạo sản phẩm. Khoa học thực hiện gồm: đạo đức học, kinh tế tài chính học, chính trị học, sử học,…với mục tiêu hướng dẫn đời sống.

Cách phân loại của Các Mác: Có 2 loại

Xem Thêm : 19 đặc sản Tiền Giang ngon ngất ngây nhất định phải thử

+ Khoa học tự nhiên: Có đối tượng người sử dụng là các dạng vật chất và các hình thức vận động của tương đối nhiều dạng vật chất này được thể hiện trong giới tự nhiên cùng những mối liên hệ và quy luật giữa chúng như: Cơ học, toán học, sinh vật học,…

+ Khoa học xã hội hay khoa học về con người: có đối tượng người sử dụng là những sinh hoạt của con người, những quan hệ xã hội của con người cũng như những quy luật, những động lực phát triển của xã hội như: sử học, kinh tế tài chính học, triết học,…..

Cách phân loại của B.M Kêdrôv trong “triết học bách khoa toàn thư” NXB bách khoa toàn thư Liên Xô Matxitcơva 1964, có những loại:

+ Khoa học triết học: Biện chứng phát, lôgíc học….

+ Khoa học toán học: Logíc toán học và toán học thực hiện ( Toán học gồm có cả điều kiển học)

+ Khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật: Cơ học và cơ thực nghiệm; Thiên văn học và du hành vũ trụ;;Vật lý thiên văn; Vật lý học; Hoá lý; Lý hoá và lý kỹ thuật; Hoá học và khoa học quy trình hóa kỹ thuật với luyện kim. Hoá địa chấ; Địa chất hoc và công nghiệp mỏ; Địa lý học; Hoá sinh vật học; Sinh vật học và khoa học nông nghiệp; Sinh lý học người và y khoa; Nhân loại học

+ Khoa học xã hội: Lịch sử hào hùng, khảo cổ học, nhân chứng học, địa lý kinh tế tài chính, thống kê kinh tế tài chính xã hội…

+ Khoa học về hạ tầng cơ sở và thượng tằng kiến trúc: Kinh tế tài chính chính trị học; Khoa học về quốc gia pháp quyền; Lịch sử hào hùng thẩm mỹ và làm đẹp và giảng dạy thẩm mỹ và làm đẹp; Tiếng nói học; Tâm lý học và khoa học sư phạm; Các khoa học khác.

UNESCO: phân loại theo đối tượng người sử dụng nghiên cứu của khoa học, có năm nhóm

  • Nhóm khoa học tự nhiên và khoa học chuẩn xác
  • Nhóm các khoa học kỹ thuật và công nghệ
  • Nhóm các khoa học về sức khoẻ (Y khoa)
  • Nhóm các khoa học nông nghiệp
  • Nhóm các khoa học xã hội và nhân văn.

Phân loại theo tổ chức cơ cấu của khối hệ thống tri thức hoặc Khóa học huấn luyện có:

  • Khoa học cơ bản.
  • Khoa học cơ sở của chuyên ngành.
  • Khoa học chuyên ngành (Trình độ)

Phân loại dựa trên mục tiêu nghiên cứu:

  • Khoa học cơ bản (basic sciences) còn gọi là khoa học thuần tuý, là khoa học giảng giải thực chất sự vật, các quan hệ tương tác và quy luật phổ quát của việc vật. Ví dụ như vật lý học, toán học và sinh vật học.
  • Khoa học ứng dụng (applied sciences) còn được gọi là khoa học thực hiện, là khoa học vận dụng tri thức từ khoa học cơ bản vào thực tế. Ví dụ, kỹ thuật là một khoa học ứng dụng các định luật vật lý và hóa học vào thực tiễn như xây dựng các cây cầu chịu được trọng tải to nhiều hơn hoặc chế tạo động cơ sử dụng nhiên liệu hiệu quả hơn; hoặc như y khoa là một khoa học ứng dụng các quy luật sinh vật học để chữa bệnh.

Cả khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng đều là cấp thiết cho việc phát triển của nhân loại. Tuy nhiên, khoa học ứng dụng không thể đứng riêng rẽ mà phải nhờ vào khoa học cơ bản trong từng bước phát triển. Tất nhiên, các tập đoàn công nghiệp và doanh nghiệp tư nhân thường thiên về khoa học ứng dụng nhằm mang lại giá trị thực tế cho họ, trong những lúc đó, các trường ĐH coi trọng cả khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng.

Ngoài những cách phân loại kể trên, còn tồn tại những cách tiếp cận phân loại khoa học khác ví như: phân loại theo nguồn gốc hình thành khoa học; phân loại theo mức độ nói chung của khoa học; phân loại theo tính tương liên giữa các khoa học…

Mỗi cách phân loại khoa học dựa trên một tiêu thức riêng có ý nghĩa ứng dụng nhất định, những điều chỉ ra được mối liên hệ giữa các khoa học, là cơ sở để nhận dạng cấu trúc của khối hệ thống tri thức khoa học, sự phát triển của khoa học luôn dẫn tới sự việc phá vỡ ranh giới cứng nhắc trong phân loại khoa học, do đó mọi cách phân loại (bảng phân loại) cần được xem như khối hệ thống mở, phải luôn luôn luôn được bổ sung và phát triển.

6. Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội

Khoa học tự nhiên

Khoa học tự nhiên là khoa học nghiên cứu các đối tượng người sử dụng hoặc hiện tượng kỳ lạ tự nhiên, ví như ánh sáng, vật chất, trái đất, các thiên thể hoặc thân thể con người.

Khoa học tự nhiên lại sở hữu thể được phân loại tiếp thành các khoa học vật chất, khoa học trái đất, khoa học sự sống và các khoa học khác.

+ Khoa học vật chất gồm có các bộ môn khoa học như vật lý (khoa học của tương đối nhiều đối tượng người sử dụng vật lý), hóa học (khoa học vật chất) và thiên văn học (khoa học của tương đối nhiều đối tượng người sử dụng thiên thể).

+ Khoa học trái đất gồm có các bộ môn khoa học như địa chất học (khoa học của trái đất).

+ Khoa học sự sống gồm có các bộ môn như sinh vật học (khoa học của thân thể con người) và thực vật học (khoa học của thực vật).

Khoa học xã hội

Khoa học xã hội là khoa học nghiên cứu con người hoặc cộng đồng người, ví như các nhóm xã hội, doanh nghiệp, hiệp hội hoặc kinh tế tài chính và hành vi thành viên, tập thể.

Khoa học xã hội có thể được phân loại thành các bộ môn khoa học như tâm lý học (khoa học về hành vi con người), xã hội học (khoa học về các nhóm xã hội) và kinh tế tài chính học (khoa học của tương đối nhiều doanh nghiệp, thị trường và kinh tế tài chính).

Sự khác biệt

Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có sự khác biệt trên một vài phương diện.

Khoa học tự nhiên yên cầu sự chuẩn xác nghiêm nhặt, rõ ràng và không phụ thuộc vào người tiến hành các nghiên cứu khoa học. Ví dụ như trong vật lý học, thí nghiệm đo tốc độ Viral âm thanh qua một môi trường thiên nhiên truyền dẫn hoặc đo chỉ số khúc xạ của nước, thì kết quả thí sát hoạch được luôn giống nhau, không phân biệt thời kì hoặc địa điểm thí nghiệm hoặc người tiến hành thí nghiệm. Nếu hai sinh viên cùng làm một thí nghiệm vật lý mà nhận được hai giá trị có đặc tính vật lý khác nhau, thì có tức thị một hoặc cả hai sinh viên đó mắc lỗi.

Tuy nhiên, khi đối chiếu với khoa học xã hội thì không thể tóm lại như vậy, bởi lẽ khoa học xã hội yêu cầu thấp hơn về sự việc chuẩn xác, cụ thể và rõ ràng. Ví dụ, nếu khách hàng giám sát và đo lường mức độ niềm sung sướng của một người bằng phương pháp sử dụng dụng cụ giả thuyết, chúng ta có thể nhận ra rằng người đó cảm thấy niềm sung sướng hay số nhọ, buồn chán ở những ngày khác nhau và thỉnh thoảng ở những thời khắc khác nhau trong cùng trong ngày. Niềm hạnh phúc của một người tùy thuộc vào thông tin người đó nhận được trong thời gian ngày hoặc các sự kiện diễn ra ngày hôm trước. Hơn nữa, không có một dụng cụ hoặc chỉ số nào có thể giám sát và đo lường chuẩn xác niềm sung sướng của một người. Vì thế trong cùng thời khắc, một dụng cụ này còn có thể xác định người này là “niềm sung sướng hơn” thì một dụng cụ đo thứ hai có thể cho ra kết quả trái lại rằng người đó “kém niềm sung sướng”.

Nói cách khác, tồn tại mức độ khác biệt lớn về giám sát và đo lường trong khoa học xã hội cũng như sự thiếu tin cậy và ít sự đồng thuận về các tóm lại trong khoa học xã hội. Trong những lúc các bạn sẽ không tìm thấy sự dị đồng giữa các nhà khoa học tự nhiên về tốc độ của ánh sáng hay tốc độ của trái đất quay xung quanh mặt trời, nhưng các bạn sẽ nhận thấy sự khác biệt rất lớn giữa các nhà khoa học xã hội về phong thái xử lý một vấn đề xã hội, như ngăn ngừa khủng bố quốc tế, vực dậy nền kinh tế tài chính khỏi sự suy thoái và phá sản. Bất kỳ sinh viên nghiên cứu khoa học xã hội cũng phải nhận thức đầy đủ về sự việc lý giải còn mơ hồ, thiếu vững chắc lẫn sơ sót trong khoa học, phản ánh sự biến thiên cao của tương đối nhiều khách thể nghiên cứu xã hội.

(Tổng hợp)

You May Also Like

About the Author: v1000