Tuyên bố chết là gì? Quy định về tuyên bố một người đã chết?

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Chet la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa và chiến lược hiệu quả. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi để cập nhật kiến thức mới.

Khi nhắc tới “cái chết” của con người, tất cả chúng ta chỉ thường xem xét nó dưới góc độ sinh vật học, y khoa. Tuy nhiên, cái chết còn được xác định dưới góc độ pháp lý, thông qua tuyên bố của Tòa án có thẩm quyền. Lí do có sự ra đời của quy định về tuyên bố chết xuất phát từ việc đảm bảo quyền, lợi ích của người khác trong quan hệ với những người đã biệt tích quá lâu mà không có bất kỳ thông tin nào mặc dù đã tìm kiếm.

Bạn Đang Xem: Tuyên bố chết là gì? Quy định về tuyên bố một người đã chết?

Trạng sư tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại thông minh 24/7: 1900.6568

Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự năm 2015

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

1. Tuyên bố chết là gì?

Theo Từ vựng Tiếng Việt (2003) của Viện tiếng nói học: “chết là mất khả năng sống, không còn biểu hiện của việc sống”. Trong y khoa, chết là sự việc chấm hết của mọi hoạt động sống như hô hấp, trao đổi chất, sư phân chia các tế bào đều chấm hết vĩnh viễn. Thông thường, một người chỉ bị xem là đã chết khi chấm hết sự tồn tại về mặt sinh vật học. Việc xác nhận chết theo trường hợp này còn có thể bằng phương pháp nhận diện thông thường thông qua các đặc điểm như ngừng thở, tim ngừng đập,…và có sự xác nhận của cơ quan, member kỹ năng tay nghề như thầy thuốc, thẩm định viên pháp y.

Khác với “chết” dưới góc độ y khoa, chết còn được ứng dụng với member dưới góc độ pháp lý, đó là tuyên bố chết của Tòa án. Thực chất của của việc tuyên bố một người đã chết chỉ là sự việc suy đoán pháp lí của tòa án của một người khi họ đã biệt tích trong một thời hạn nhất định.

Thắc mắc nêu ra là vì sao phải nêu ra quy định về cái chết pháp lý?

Xem Thêm : Thẻ ghi nợ Vietcombank là gì?Có những loại thẻ ghi nợ Vietcombank nào?

Điều này được lí giải xuất phát từ sự tồn tại của member trong mối liên quan với nhiều member khác trong cộng đồng xã hội. Sự thiếu vắng của họ sẽ làm thay đổi quá trình tồn tại và phát triển của nhiều quan hệ mà người ta đang tham gia. Trong thực tế, có nhiều trường hợp member vắng mặt quá lâu ngày không thể xác định là họ còn sống hay đã chết, tình trạng này làm gián đoạn các quan hệ xã hội đang tham gia và ảnh hướng tới quyền lợi của chính họ cũng như quyền lợi hợp pháp của những người dân liên quan. Khi member chết thì tư cách chủ thể của họ của hoàn toàn chấm hết trên thực tế, các quan hệ pháp luật mà người ta tham gia cũng sẽ chấm hết hoặc có sự xáo trộn về mặt chủ thể. Vì vậy, quy định về tuyên bố chết ra đời nhằm duy trì trật tự các quan hệ pháp luật hoặc chấm hết một số quan hệ pháp luật mà người tham gia đã vắng mặt quá lâu ngày, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của nhiều chủ thể khác.

Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về tuyên bố chết như sau: Tuyên bố chết là nội dung được thể hiện trong quyết định tuyên bố một người là đã chết của Tòa án nhằm xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết khi có đủ các địa thế căn cứ luật định.

2. Quy định về tuyên bố một người đã chết:

Quy định về tuyên bố một người đã chết được thể hiện trong quan hệ giữa Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự, trong đó Bộ luật dân sự quy định cụ thể tham gia để xác định một người là đã chết, hậu quả pháp lý khi một người bị tuyên bố là đã chết; quy định về vấn đề quản lý tài sản quy định về quyền yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người đã chết. Còn Bộ luật tố tụng dân sự quy định vấn đề tuyên bố một người đã chết theo phía quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các quyền mà Bộ luật dân sự đã quy định, dựa trên các quy định của Bộ luật dân sự về vấn đề tuyên bố một người đã chết làm địa thế căn cứ, cơ sở quy định về các trình tự, thủ tục xử lý và ra quyết định chấp thuận đồng ý hoặc không chấp thuận đồng ý yêu cầu tuyên bố một người đã chết của người dân có quyền, lợi ích liên quan.

Phân tích các quy định về tuyên bố một người đã chết, tác giả chia thành các vấn đề sau:

Thứ nhất, tham gia để tuyên bố chết so với member.

Một là, đã quá thời hạn nhất định mà member này vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. Theo tham gia này, tòa án chỉ có thể tuyên bố chết so với member nếu qua thời hạn luật định mà người ta vẫn không có tin tức là còn sống. Thời hạn này được xác định cụ thể vào từng trường hợp theo quy định tại Khoản 1, Điều 71, cụ thể:

– Nếu tuyên bố là đã chết so với người đã qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải quá thời hạn là ba năm Tính từ lúc ngày quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực pháp luật.

– Nếu tuyên bố là đã chết so với người chưa qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải trải qua thời hạn là năm năm, Tính từ lúc ngày cuộc chiến tranh kết thúc (nếu người đó biệt tích trong cuộc chiến tranh) hoặc sau 02 năm, Tính từ lúc ngày tai nạn đáng tiếc hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm hết (nếu người đó bị tai nạn đáng tiếc hoặc thảm họa, thiên tai).

– Nếu tuyên bố là đã chết so với người biệt tích lâu ngày mà chưa qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải qua thời hạn hạn là năm năm, tính từ thời điểm ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ thời điểm ngày trước tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ thời điểm ngày trước tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

Hai là, phải thông qua thủ tục thông tin tìm kiếm.

Xem Thêm : Flow meter là gì? Các loại và ứng dụng thực tế của chúng

Tham gia này sẽ không được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, tuy nhiên xuất phát từ tham gia tuyên bố một người mất tích thì việc thông tin tìm kiếm so với người dân có khả năng được tuyên bố đã chết là hoàn toàn hợp lí, việc thông tin tìm kiếm với mục tiêu nhằm xác định lại lần cuối cùng về tin tức còn sống của một người trước lúc tòa án quyết định về thận phận pháp lú của họ.

Ba là, phải có yêu cầu của người dân có quyền, lợi ích liên quan. Đây là những member có sự ràng buộc trong quan hệ nào đó như hôn nhân gia đình gia đình, hành chính, lao động,…với những người mà sự vắng mặt của người đó làm tác động tới quyền lợi của họ. Ví dụ như vợ yêu cầu tòa án tuyên bố chồng đã chết để thực hiện các thủ tục pháp lý về thừa kế.

Thứ hai, xác định ngày chết của người bị tuyên bố đã chết.

Việc xác định ngày chết là vô cùng quan trọng, là cơ sở để xác định ngày mở thừa kế so với di sản của nguời đó và là ngày để xác định các quan hệ khác mà người đó tham gia được xem là chấm hết. Việc xác định ngày chết được quy định tại Khoản 2, Điều 71 Bộ luật dân sự, Từ đó: “Địa thế căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.” Theo quy định này, thì ngày chết của người bị tuyên bố đã chết được xác định khá linh hoạt, phụ thuộc vào sự kiện thực tế xẩy ra và thời hạn tuyên bố một một người đã chết để quyết định. Trong trường hợp không xác định được thì ngày quyết định tuyên bố một người đã chết có hiệu lực được xác định là ngày chết của người tuyên bố đã chết.

Thứ ba, quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố đã chết.

Nội dung này được ghi nhận tại Điều 72 Bộ luật dân sự, Từ đó, khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân gia đình, gia đình và các quan hệ nhân thân khác, quan hệ tài sản của người này được xử lý như so với người đã chết. Tài sản của người này được xử lý theo quy định của pháp luật về thừa kế. Như vậy, quy định này một lần nữa khẳng định rằng, việc tuyên bố một người đã chết đã làm phát sinh tất cả hậu quả pháp lý về nhân thân, tài sản của người đó như so với người đã chết theo quan niệm thông thường.

Thứ tư, thủ tục yêu cầu và quyết định tuyên bố một người đã chết.

Quy định về thủ tục xử lý yêu cầu tuyên bố một người đã chết được quy định tại Chương XXVII Bộ luật tố tụng dân sự, được tóm tắt như sau:

Người dân có quyền, lợi ích liên quan kiến nghị và gửi đơn yêu cầu kèm tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết. Trong thời hạn 20 ngày, Tính từ lúc ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, Tòa án ra quyết định thông tin tìm kiếm thông tin về người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết. Trong thời hạn 10 ngày, Tính từ lúc ngày hết thời hạn thông tin thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.

Trường hợp chấp thuận đồng ý đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết; trong quyết định này, Tòa án phải xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trú ngụ của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

You May Also Like

About the Author: v1000