Chánh kiến với giới học Phật giáo

Chúng tôi rất vui mừng chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Chanh kien la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Chánh kiến là cái thấy đúng, cái thấy chân chánh hỗ trợ cho tất cả chúng ta tìm ra những tiêu chuẩn để sở hữu thể biết rằng hành động đó là đúng hay sai, tốt hay xấu…, là một phòng ban của triết học nhằm dựa vào trí tuệ mà thiết lập một sự phân biệt rõ ràng giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều không nên làm, nhằm nêu ra một nguyên tắc tổng quát để thẩm định và đánh giá các hành động.

Bạn Đang Xem: Chánh kiến với giới học Phật giáo

Tuệ giác rất quan trọng, bởi không có trí tuệ, mình sẽ không còn biết được dãy phố nào nên đi và cần thực tập ra làm sao. Ví như một người không phân biệt được thiện ác, không thấy rõ được lợi ích của việc hành trì pháp giới thì họ đâu có hành trì và nhận định rằng đó là điều ràng buộc. Tuệ tức là Chánh kiến hay cũng nói theo một cách là như lý tác ý (Yoniso-manasikàra).[4] Khi có Chánh kiến tức là Vô si, mình sẽ đã có được tư duy chân chánh. Chính vì sự tư duy như lý tác ý này hỗ trợ cho mình đã có được hành động đúng, hành động không khiến khổ đau, không tàn hại môi sinh, không khiến tác hại cho việc sống muôn loài. Nói cách khác, những hành động này đã vượt qua trở lực tham, sân, si. Như vậy ta đã thực hiện được chi phần giới chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng trong Bát chánh đạo. Chính vì Chánh kiến có tầm quan trọng như vậy, Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề chi phần này trước tiên trong Bát chánh đạo, một phương hướng hỗ trợ cho con người thực hiện nếp sống đạo đức hướng thượng.

Chánh kiến là gì và lợi ích của chánh kiến

Chánh kiến là cái thấy đúng, cái thấy chân chánh giúp cho chúng ta tìm ra những tiêu chuẩn để có thể biết rằng hành động đó là đúng hay sai, tốt hay xấu…

Chánh kiến là cái thấy đúng, cái thấy chân chánh hỗ trợ cho tất cả chúng ta tìm ra những tiêu chuẩn để sở hữu thể biết rằng hành động đó là đúng hay sai, tốt hay xấu…

Ở tại mức độ tiên khởi của Chánh kiến, nó đây chính là Trạch pháp trong Thất giác chi. Yếu tố này giúp con người hiểu được mối tương quan nhân quả thông qua dãy phố nghe pháp và học pháp. Điều này hàm ý người dân có Chánh kiến thì đủ sức hiểu biết, nhận rõ mười Thiện nghiệp (Kusala kamma) và mười Bất thiện nghiệp (Akusala kamma) qua thân khẩu ý. Thiện nghiệp đem lại quả an vui, đó là những phước báu dẫn đến niềm sung sướng đời nầy và đời sau. Do đó, mười thiện nghiệp được gọi là chánh nghiệp. Trái lại, bất thiện nghiệp đưa đến những quả báo xấu và chúng dẫn đến khổ đau cùng xấu số ở đời này và đời sau. Cho nên, chúng được gọi là bất thiện nghiệp.

Chánh kiến giúp hoàn thiện về thân

Như đã trình bày ở trên, Chánh kiến là tuệ tri được thực chất của thiện và bất thiện. Vậy thế nào là bất thiện, thế nào là cơ bản của bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là cơ bản của thiện là những điều mà tất cả chúng ta cần được tìm hiểu.

Trong cuộc sống, tất cả chúng ta luôn đối mặt với những công việc cần xử lý: từ tư duy trí tuệ cho tới nói năng, hành động. Tất cả đều chịu sự chi phối của ý thức và hành động được biểu hiện qua thân hành, khẩu hành cùng ý hành. Kết quả của hành động được thẩm định và đánh giá là thiện hay bất thiện tùy thuộc vào sự tác ý của chủ nhân hành động, nhưng cơ bản trên mặt bằng thân hành, tất cả chúng ta có thể tạm thẩm định và đánh giá qua ba phương diện như trong kinh Chánh Tri Kiến:

“Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện và trái lại từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện. Song song cơ bản của những bất thiện hay thiện pháp này đây chính là tham, sân, si hay vô tham, vô sân, vô si.”[5]

Điều này cho tất cả chúng ta thấy chính quan kiến hướng dẫn hành động. Nếu hiểu biết sai trái, tất cả chúng ta sẽ dễ dàng bị lạc lối, dẫn đến những hành động sai trái và đưa đến khổ đau. Trái lại, nếu hiểu biết chân chánh thì chúng sẽ đưa đến hành động đúng đắn và có thể hướng con người đến niềm sung sướng, giải thoát khổ đau.

Xem Thêm : ” Pussy Là Gì, Nghĩa Của Từ Pussy, Pussy Có Nghĩa Là Gì

Một số nền đạo đức học tôn giáo thuộc Độc thần giáo như Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo không tin vào nhân quả mà chỉ địa thế căn cứ vào mệnh lệnh của đấng Thượng Đế với mười điều răn, xuất hiện qua lời mặc khải của Ngài.[6] Trong những lúc đó, năm giới, mười thiện nghiệp của đạo Phật thì không xuất phát từ sự phán quyết của Đức Thế Tôn mà xuất phát từ nhận thức giác ngộ của đức Thế Tôn. Nhận thức này đã có được do sự chứng đắc qua dãy phố thực tập hay qua sự tư duy theo dãy phố như lý tác ý. Ý thức được rằng sự niềm sung sướng do không sát hại mang lại là nhờ vào sự hiểu biết về nhân quả, giữ tâm hồn thanh thoát trong cuộc sống nên người ấy biết tránh ác và hành thiện.

Con phố đi đến thành tựu chánh kiến

Chánh kiến thật sự cần thiết cho chúng ta trên con đường hướng thượng để làm cho tâm ý được thanh tịnh.

Chánh kiến thật sự cấp thiết cho tất cả chúng ta trên dãy phố hướng thượng để làm cho tâm ý được thanh tịnh.

Người thông hiểu nhân quả cũng biết rõ rằng chính những hành động thiện ác của họ đã làm cho đời sống họ niềm sung sướng hay khổ đau. Người ấy biết rằng nguyên nhân trực tiếp của những khác biệt và bất đồng đẳng về sinh trưởng trong cuộc đời này là những nghiệp thiện hoặc ác của mỗi member trong những kiếp quá khứ hay trong chính kiếp ngày nay này mang lại.[7] Và tư cách của con người được hình thành chính từ những hành động có tác ý chân chánh hay là không chân chánh. Sự tác ý đó hỗ trợ cho thân hành của mình được thanh tịnh nhờ vào những việc làm lành, tránh xa mọi công việc đưa đến hại mình, hại người như chú thuật, giết người, cướp của, lường gạt kẻ khác, v.v… Sự tác ý chân chánh sẽ hướng dẫn hành giả sống đúng với chánh pháp, biết lựa chọn những nghề nghiệp mang lại lợi ích, an vui cho mình và cho tất cả những người. Đó gọi là nghề nghiệp sinh sống chánh đáng của một hành giả thực hiện Chánh pháp của Đức Phật.

Khi ý thức được điều này, hành giả sẽ sớm hoàn thiện thân hành của mình – một phần trên dãy phố hoàn thiện đạo đức giải thoát. Như vậy, khi một người dân có Chánh kiến, hiểu được vị trí của họ trong vũ trụ huyền nhiệm này và cư xử đúng pháp, người ấy sẽ tiến bộ về phương diện đạo đức và tâm linh. Chánh kiến đã mở lối và hướng hành giả đến chứng ngộ Duyên Khởi Tánh và Tứ Đế. Như vậy, Chánh kiến đã đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tu tập Bốn lý lẽ. Trên cơ sở này, tất cả chúng ta nói theo một cách rằng Chánh kiến đi hàng đầu trong mọi pháp môn. Nhận thức sáng tỏ được vấn đề này còn gọi là Kiến đạo. Luận sư Vasubandhu đã nhấn mạnh vấn đề rằng có thấy được đạo mới có thể tu và đắc đạo được. Ngài đã khẳng định rằng, một hành giả cần phải trải qua ba thời đoạn tu tập“Kiến đạo, Tu đạo và Vô học đạo”[8] để bước lên dãy phố giác ngộ.

Chánh kiến giúp hoàn thiện về khẩu

Khi có Chánh kiến, mình sẽ đã có được tư duy chân chánh và hẳn nhiên là sẽ nói năng đúng phép như được ghi lại trong kinh Chánh Tri Kiến. Ngài Sàriputta nói: “Nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện… nhưng cơ bản của chúng vẫn dựa trên nền tảng của tham, sân, si hay vô tham, vô sân, vô si”.[9] Lời nói câu hữu với Avijja (vô minh) sẽ đưa hành giả vào ba đường ác. Trái lại, lời nói chân thật, lời nói hòa hợp lợi mình lợi người, lời nói nhẹ nhõm không thô ác nặng nề, lời nói không tô vẽ phù phiếm sẽ câu hữu với Paññā (trí tuệ) và mang lại an vui niềm sung sướng. Ví như có người thóa mạ, buông lời chỉ trích, kết tội vu vạ cho tất cả những người khác, nếu người nghe sanh tâm phiền não, nóng giận thì ngay tức khắc xử sự thiếu tĩnh tâm và thiếu chánh kiến. Trong tình huống này, người ấy sẽ sở hữu được lời qua tiếng lại. Khi sân hận gặp sân hận thì phiền não, thù hận Từ đó tiếp diễn và đưa đến hậu quả khôn lường. Thế nhưng, khi tất cả chúng ta tĩnh tâm suy xét với cái nhìn của Chánh kiến, tất cả chúng ta sẽ thấy được đầu mối nguyên nhân dẫn đến bất hòa. Có thể do sự hiểu nhầm của người kia hoặc có thể đó là lỗi ở mình để tìm giải pháp tốt nhất xử lý vấn đề một cách ổn thỏa. Hơn nữa, trong những tình huống như vậy, tất cả chúng ta cần vận dụng Chánh kiến để thấy rằng thân ngũ uẩn này là giả hợp, không có gì là sở hữu của ta thì ngọn lửa sân hận sẽ không còn phát ra và nếu đã phát triển chóng mặt, chúng sẽ chóng tàn và không mang lại nhiều não hại cho tất cả những người khác. Vì vậy mà Chánh kiến diệt trừ được những ảo tưởng, giúp hoàn thiện khẩu hành và nhận chân được thật tướng của khá nhiều pháp như trăng thoát mây che.

Hơn nữa, khi tiếng nói được sử dụng một cách chân chánh thì hành giả có thể xử lý mọi vấn đề êm đẹp trong hòa ái, mang lại ý thức kết đoàn, góp phần thiết lập một thế giới đại đồng, hòa bình và thịnh trị ở khắp mọi nơi. Nói cách khác, Chánh kiến trong việc sử dụng tiếng nói, lời nói được thiết lập thì sẽ xuất hiện sự thông cảm. Đó cũng đây chính là Chánh ngữ trong Bát chánh đạo. Khi tôi đã ý thức được từng lời nói, lúc nào thì cũng nói lời hay, lẽ thật mang tính chất xây dựng và thương yêu thì làm gì có chuyện đạo đức xã hội băng hoại hay xuống cấp trầm trọng trầm trọng. Do đó, Chánh kiến có một vai trò rất quan trọng trong mạng lưới hệ thống đạo đức Phật giáo cũng như giáo lý của Phật-đà. Chính vì sự hiểu biết chân chánh sẽ đưa đến tư tưởng, lời nói và hành động chân chánh. Nhờ Chánh kiến mà tất cả chúng ta diệt trừ được cay nghiệt, tinh tấn thực hiện thiện pháp để hoàn thiện tư cách hơn. Đó cũng là điều đạo đức xã hội hướng tới. Thế nhưng, đạo đức xã hội hầu như chỉ tạm ngưng trên mặt bằng kiểm soát và điều chỉnh hành vi và chưa thể diệt trừ được tận gốc rễ căn nguyên tham, sân, si cùng với sự tiến sâu vào dãy phố hoàn thiện trong suy tư và ý nghĩ. Chánh kiến của Phật giáo có thể góp phần làm nền tảng cho dãy phố hoàn thiện tư duy và ý nghĩ.

Có hai loại chánh kiến

Chúng ta cần thực tập Chánh kiến để thấy đúng, hiểu rõ về bản chất của cuộc đời vốn là vô thường, giả tạm; cả thân xác lẫn tâm ý đều thay đổi không ngừng.

Tất cả chúng ta cần thực tập Chánh kiến để thấy đúng, nắm rõ về thực chất của cuộc đời vốn là vô thường, giả tạm; cả thể xác lẫn tâm ý đều thay đổi không ngừng nghỉ.

Chánh kiến giúp hoàn thiện về ý nghĩ

Trong Kinh Pháp Cú kệ số 1 và 2, Đức Thế Tôn đã đề cao vai trò của ý thức như thể một vị vua có đủ mọi quyền hành điều binh khiển tướng và mọi thành công hay thất bại đều do sự chỉ huy của vị vua này. Ý nghĩ của tất cả chúng ta có đủ quyền uy để dẫn dắt con người đi trên đạo lộ thanh tịnh hay đạo lộ khổ đau. Tất cả những dãy phố ấy đều tùy thuộc vào sự phân biệt, quyết định của mỗi member. Vì thế hành giả tu tập theo chánh pháp của Phật thì trước hết phải thanh tịnh hóa ý nghiệp trong từng ý nghĩ, tức là ý không bị tham, sân, si chi phối. Nói cách khác, ý không nghĩ đến những điều nguy hại mình, hại người mà phải có những ý nghĩ đem lại lợi ích cho chính mình và mọi người chung quanh, gồm những người dân thân của mình và xa hơn nữa là xã hội. Đức Như Lai đã nhấn mạnh vấn đề tầm quan trọng của Như lý tác ý (Yoniso manasikāra) bằng những lời dạy rất rõ ràng ràng:

“Như Lai tuyên bố có sự đoạn trừ các lậu hoặc chỉ cho tất cả những người biết, cho tất cả những người thấy chớ không cho tất cả những người không biết, không thấy. Và này các Tỳ-khưu, do biết gì, do thấy gì, Như Lai nói là có đoạn trừ các lậu hoặc, có tác ý chân chánh và có tác ý không chân chánh? Này các Tỳ-khưu, khi đối chiếu với vị nào tác ý không chân chánh, các lậu hoặc chưa sanh sẽ khởi lên, và các lậu hoặc đã sanh càng thêm tăng trưởng; và này các Tỳ-khưu, khi đối chiếu với vị nào có tác ý chân chánh, các lậu hoặc chưa sanh sẽ không còn khởi lên và các lậu hoặc đã sanh được đoạn trừ.”[10]

Chính như lý tác ý hướng dẫn những hành động và làm nhân cho dãy phố niềm sung sướng. Những hành động phát xuất từ nhận thức đúng đắn của như lý tác ý là những hành động xuất phát từ một tiềm thức không bị tham, sân, si chế ngự; và do đó, mọi lậu hoặc hay cay nghiệt không có nhập cuộc để phát triển. Khi hành động với như lý tác ý, kiên cố niềm sung sướng sẽ tới với những người hành động cũng như người chịu tác động của những hành động này. Khi có Chánh kiến, hành giả hành động thiện xảo, giới thanh tịnh được hình thành. Sự tốt đẹp của giới thanh tịnh làm nền cho mạng lưới hệ thống đạo đức Phật giáo phát triển. Do đó, Chánh kiến thật sự cấp thiết cho tất cả chúng ta trên dãy phố hướng thượng để làm cho tâm ý được thanh tịnh. Tất cả chúng ta cần thực tập Chánh kiến để thấy đúng, nắm rõ về thực chất của cuộc đời vốn là vô thường, giả tạm; cả thể xác lẫn tâm ý đều thay đổi không ngừng nghỉ. Khi thấy được thực chất ấy, ta sẽ không thật bám víu, chấp chặt vào các sự vật hiện tượng kỳ lạ trong thế giới tương đối, trước mọi tình huống cứ tĩnh tâm, vui tươi và thoải mái xử lý mọi vấn đề. Có như vậy thì ý thức sẽ tiến hành cân bằng, giảm bớt những lo lắng, căng thẳng. Song song Chánh kiến hỗ trợ cho mọi người đã có được những suy tư đúng đắn, chân chính và đây đây chính là nhân cho định phát sanh.

Xem Thêm : Xe underbone là gì và đặc điểm giúp bạn nhận biết

Chú thích:

1] Jung, Man and His Symbols. (Thủ đô New York: Dell Publishing, 1964), 91; Thích Nữ Hương Nhũ, Vài Nét Về Tâm Lý Học Phổ Thông Và Tâm Lý Phật Giáo, http://www.vnthuquan.net.

[2] Thích Minh Châu (dịch), Trung Bộ Kinh I – Kinh Chánh Tri Kiến (Hà Nội Thủ Đô: NXB Tôn Giáo, 2003), 112.

[3] Sđd, tr.116.

[4] Thích Minh Châu (dịch), Trung Bộ Kinh I – Kinh Tất Cả lậu Hoặc (Hà Nội Thủ Đô: NXB Tôn Giáo, 2003), 24.

[5] Thích Minh Châu (dịch), Trung Bộ Kinh I – Kinh Chánh Tri Kiến (Hà Nội Thủ Đô: NXB Tôn Giáo, 2003), 112.

[6] Mặc khải hay còn gọi là Thiên khải, có tức là những lời dạy của Thượng Đế, truyền lại cho con người qua một nhân vật nào đó và bắt buộc mọi người phải tin theo.

[7] Tuy là những hành động thuộc kiếp sống ngày nay nhưng suy cho cùng thì những hành động ấy vẫn thuộc về quá khứ so với ngày nay lúc thọ quả diễn ra.

[8] Thích Thiện Siêu, Đại Cương Luận Câu Xá (Hà Nội Thủ Đô: NXB Tôn Giáo, 2006), 279.

[9] Thích Minh Châu (dịch), Trung Bộ Kinh I – Kinh Chánh Tri Kiến (Hà Nội Thủ Đô: NXB Tôn Giáo, 2003), 112.[10] Thích Minh Châu (dịch), Trung Bộ Kinh- Kinh Đoạn Trừ Lậu Hoặc (Hà Nội Thủ Đô: NXB Tôn Giáo, 2003), 20.

You May Also Like

About the Author: v1000