Vô thức trong quan niệm của Phật giáo và dưới góc nhìn của khoa học (BS. Nguyễn Văn Thông)

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Vo thuc la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa và chiến lược hiệu quả. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi để cập nhật kiến thức mới.

Bạn Đang Xem: Vô thức trong quan niệm của Phật giáo và dưới góc nhìn của khoa học (BS. Nguyễn Văn Thông)

VÔ THỨC VỚI GÓC NHÌN KHOA HỌC

Đã từ lâu, cõi vô thức vẫn là một ẩn số khi đối chiếu với khoa học. Gần đây, sau lúc đi sâu nghiên cứu, các nhà khoa học đã cho chúng ta thấy đã đi đến tận cùng của cõi vô thức. Thực hư thế nào, ta thử tìm hiểu xem.

Trong khu công trình nghiên cứu tiến hành năm 1983, Benjamin Libel, nhà nghiên cứu về sinh lý học thuộc Viện ĐH California, đã mời các tự nguyện viên tham gia một cuộc thử nghiệm. Công việc của tự nguyện viên rất đơn giản, nhấn nút bấm khi họ cảm thấy khỏe, với yên cầu duy nhất là ghi chú xác thực thời khắc họ quyết định. Phán quyết của điện não đồ: 300 mili giây trước lúc họ có ý định nhấn nút, các vùng vận động tham gia vào hành động này đã được kích hoạt trong não của họ. Nói cách khác, vô thức biết hành động của họ trước lúc họ hành động.

Trong những khi đó, Sigmund Freud đã thấy vô thức như một thế lực ngầm núp trong bóng tối, một chiếc tôi khác cùng hiện hữu với cái tôi có ý thức trong con người, che giấu dục vọng bị dồn nén, xung năng của lực sống và cái chết hiện ra một cách hỗn độn. Vô thức và ý thức, hai thế lực riêng biệt, luôn đối lập nhau thường xuyên để giành quyền kiểm soát hành động và tư duy của tất cả chúng ta. Tính từ lúc cuộc thử nghiệm của Libel, nhờ vào sự tiến bộ của ngành chẩn đoán hình ảnh học, các nhà khoa học đã nắm vững hơn về vai trò của tiến trình vô thức và sự hiệp đồng chặt chẽ giữa vô thức và ý thức.

Vào năm 2011, Tiến sĩ Daniel Kahneman, nhà tâm lý học đoạt giải Nobel, đã xuất bản cuốn sách bàn về thuyết tương hỗ giữa hai hệ vô thức và có ý thức. Theo ý ông, hai hệ hoạt động đồng thuận với nhau để tinh chỉnh và điều khiển các hành vi và quyết định của tất cả chúng ta. “Hệ 1” hoạt động theo chức năng trực quan và không tự ý, dựa trên sự đa dạng của cơ chế tự động hóa xuất phát từ kinh nghiệm của tất cả chúng ta. “Hệ 2” hoạt động chậm hơn, yên cầu sự tập trung lưu ý và đảm bảo sự liên tục khi “hệ 1” chưa chắc chắn xử lý ra sao.

Tiến trình vô thức phong phú hóa trí thông minh

Chỉ một mình vô thức là không đủ. Để minh chứng cho việc này, các nhà nghiên cứu nhận thấy những bệnh nhân bị tổn thương não bộ vẫn cầm cự được nhiều năm nhờ vào tiến trình vô thức mặc dù sự tương tác với thế giới bên phía ngoài rất hạn chế. Tuy nhiên, nếu hiệp đồng với hệ có ý thức sẽ trở thành một phương tiện đáng sợ vì nó có khả năng “thích ứng hóa” thái độ xử sự của tất cả chúng ta với mọi hoàn cảnh. Vì vậy, nhà phân tâm học Sylvie Chokron của CNRS nhận định rằng: “tiến trình vô thức đã phong phú hóa trí thông minh của tất cả chúng ta”. Theo chị S. Chokron, tiến trình này vững chắc hơn, xử lý nhanh hơn và ít bị ảnh hưởng tác động bởi các cảm xúc. Dù ta có bị kích động, có bị sợ hãi hay là không, chúng chỉ diễn ra trong nội tâm tất cả chúng ta mà thôi. Đó là điều khác biệt giữa con người và robot, dù chúng được thiết kế, lập trình có ý thức thì chúng cũng không thể sánh ngang hàng với tất cả chúng ta.

Tận cùng của ý thức

Nhờ vào những kỹ thuật công nghệ cao và khảo cứu về những tổn thương não bộ, các nhà nghiên cứu đã xác định làn ranh mới giữa ý thức và vô thức. Đó là “chén thánh” của những nhà khoa học, cũng tương tự như vật chất đen giúp khoa học thấy được giới hạn của ý thức và những khác biệt so với vô thức. Với máy chụp cộng hưởng từ “PET Scan”, các nhà nghiên cứu quan sát được lượng tiêu thụ glucose trong một cơ quan, người ta có thể thấy những gì xẩy ra trong lúc ngủ, biến dưỡng trong não bộ giảm 40%, nên vô thức chỉ có tính cách tạm thời. Như vậy, ý thức tiêu thụ năng lượng rất nhiều.

Ý thức khu trú ở đâu?

Không thể xác định được ý thức khu trú ở vùng nào trong não bộ. Theo những nhà khoa học, đó chỉ là phương pháp tương hỗ lẫn nhau giữa các vùng bị tác động. Năm 2019, các nhà nghiên cứu khảo sát tỉ mỉ hoạt động của não bộ bằng máy cộng hưởng từ nhiệm năng (IRMf) trên 159 người, trong đó 47 người dân có sức khoẻ thường ngày và 112 người tổn thương ý thức. Ở đối tượng người sử dụng thường ngày, khớp nối thần kinh đơn giản và nằm ở vùng cạn. Còn ở đối tượng người sử dụng bị tổn thương thần kinh, sự tương tác rất phức tạp và năng động, ảnh hưởng tác động đến 42 vùng nằm ở sâu và cách xa nhau.

Hôn mê là tình trạng nặng nhất của tổn thương ý thức

việc này liên quan đến giới hạn giữa hai trạng thái ở những bệnh nhân mà ý thức bị tổn hại. Chẳng hạn trường hợp của cậu thiếu niên Antoine bị tai nạn thương tâm xe hơi lúc 14 tuổi. Nạn nhân bị chấn thương sọ não, hôn mê trong 3 tuần lễ. Phải mất nhiều tháng cậu mới có biểu hiện của ý thức: Có nụ cười thân thiện, trả lời được những thắc mắc đơn giản bằng phương pháp cử động cánh tay hay chân. Sự việc đó xẩy ra từ thời điểm cách đó 18 năm. Tiến sĩ Philippe Petit thuộc Hội Chấn thương sọ não đã cho chúng ta thấy: “Sự tương tác của cháu ngày càng tiến bộ, hoàn toàn tự thực hiện”. Có tầm khoảng 2.000 người trong tình trạng tổn hại ý thức vẫn sống sót trong phòng chăm sóc đặc biệt quan trọng.

Chấn thương sọ não, ngừng tim, tai biến mạch máu não… đều là nguyên nhân của tổn hại ý thức. Hôn mê là tình trạng nghiêm trọng nhất: bệnh nhân có vẻ như đang ngủ nhưng không thể thức tỉnh được. Thông thường bệnh nhân có thể lai tỉnh hoặc đi đến tử vong hoặc sống lưng chừng giữa hai trạng thái: bệnh nhân tỉnh ngộ, nhắm mắt nhắm mũi khi ngủ và không phải thở máy. Tuy nhiên tính tương tác với ngoại giới vẫn còn hạn chế, bệnh nhân tỉnh nhưng không có ý thức. Do một lượng lớn tiến trình tự động hóa vẫn còn tồn tại như thức tỉnh, hay nhịp thức-ngủ được tinh chỉnh và điều khiển bởi thân não. Thân não nằm rất sâu trong não bộ có thể giúp bệnh nhân sống đến hàng trăm ngàn năm. Vì vậy, lương y phân biệt hai tình trạng: có ý thức tối thiểu (hay còn gọi tương tác nghèo nàn) và sống thực vật mạn tính. Khả năng hồi phục rất khó.

NHỮNG LIỆU PHÁP TÁC ĐỘNG ĐẾN VÔ THỨC

Xem Thêm : Occupational Therapy Là Gì? 5 Kỹ Năng Cần Có Của Occupational Therapist

Thôi miên, chuyển động nhãn cầu, thiền… Các liệu pháp này mang lại những phương pháp mới trong điều trị các chứng đau nhức. Vô thức ảnh hưởng tác động rất lớn đến nội tại, đè nặng lên cuộc sống của tất cả chúng ta. Vì vậy, phân tâm học dựa trên lời nói để làm sáng tỏ vô thức.

Thôi miên chữa trị lo lắng và giúp cai nghiện

Các bạn đừng bận tâm đến những show diễn trên truyền hình mà trong đó các ảo thuật gia tinh chỉnh và điều khiển những con chuột bạch thực hiện các động tác trước hiệp hội. Thôi miên theo phong cách Erickson ngày càng rất được yêu thích để làm giảm nhẹ các cơn đau, giảm căng thẳng hay giúp cai nghiện. Thôi miên không phải ảo thuật mà là thủ thuật tương trợ lương y kiểm soát được vô thức của tất cả chúng ta. Theo TS. Jean-Mac Benhaiem, thôi miên có mục tiêu làm chuyển đổi nhận thức người bệnh khi đối chiếu với tình huống gây ra sự sợ hãi, lo lắng cho bệnh nhân như: vấn đề hút thuốc, sức ép công việc đè nặng hay sợ các loài vật như nhện, gián…

Để thực hiện điều này, lương y thôi miên đưa bệnh nhân vào trạng thái mà ý thức bị chuyển đổi, nằm trong lòng thức và ngủ. Trong thời kì đầu, lương y tạo ra một trạng thái tơ mơ bằng phương pháp tập trung lưu ý vào trong 1 điểm trên tường hay bằng phương pháp nghe giọng nói túc tắc của lương y thôi miên. Người bệnh khai mạc thả lỏng thân thể, đặt lý trí sang một bên để tự kết nối lại với thân thể.

Vào năm 2016, ekip của TS. David Spiegel ở Viện ĐH Stanford, bằng phương pháp khảo sát dưới máy cộng hưởng từ hạt nhân, đã phát hiện ra chức năng của não bộ bị chuyển đổi dưới tác dụng của thôi miên. Hoạt tính của vùng chịu tác dụng thôi miên thì tín hiệu nhận được bị sụt giảm, tức thị bệnh nhân không còn tương tác với môi trường xung quanh bên phía ngoài, ngoại trừ giọng nói túc tắc của lương y thôi miên. Một sự rối loạn não bộ khiến cho não dễ cảm thụ với ám thị thôi miên. Nhà thôi miên lặp đi tái diễn bằng một giọng nhỏ nhẹ túc tắc với những người bệnh rằng: “hút thuốc có hại cho sức khỏe, hút thuốc làm mất đi vị giác”. Một khi thoát ra khỏi trạng thái này, người bệnh cảm thấy không còn nhu cầu hút thuốc nữa. Tuy nhiên đây là một liệu pháp không mấy phổ quát bởi vì 1/3 dân số kém nhạy cảm với thôi miên.

Thiền chữa trị stress

Người ta thường gào la khi tính khí khó chịu hay sử dụng chất kích thích như: bia, rượu để làm giảm stress… phần lớn phản ứng của tất cả chúng ta được thực hiện một cách tự động hóa. Theo TS. Francois Bourgognon, thiền giúp tất cả chúng ta trở về thực tế với những gì đang xẩy ra và ngay lúc này. Mục tiêu là lấy lại ý thức từ những hành vi tự động hóa để không phải chịu đựng hơn nữa và có thể hoạt động trở lại như mong đợi. Để đạt được ý thức hoàn toàn thì phải tập luyện chứ đừng trông chờ vào phép lạ. Ví dụ như khởi đầu bằng bài tập “tập trung lưu ý vào trong 1 tiêu điểm” song song phối phù hợp với hơi thở rồi từ từ sẽ đạt được quán chiếu nội tâm. Trong thời kì tập tành, có những chuyển đổi kéo dãn xẩy ra trong những vùng não có chức năng về lưu ý, cảm xúc và ý thức về tự ngã. Những hiệu ứng này sẽ không phải chỉ được nhìn thấy trên não bộ: Vào năm 2018, các nhà nghiên cứu người Úc đã nhận được thấy nồng độ Cortisol (hóc-môn liên quan đến stress) giảm xuống ở những người dân thực hiện thiền đều đặn. Thiền cũng là liệu pháp được chọn trong chữa trị chứng đau, sa sút trí tuệ hay để tăng cường khả năng tập trung lưu ý.

VÔ THỨC THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO

Tâm dưới dạng vô thức gọi là Bhavanga (còn gọi là Tâm hộ kiếp) tương đương với A-lại-da thức trong Duy Thức Luận. Bhavanga gồm những khoảnh khắc không có những cảm xúc khi không tư duy, khi không có tâm bất thiện và tâm thiện. Những khoảnh khắc đó có tâm không? Vẫn có tâm nếu không sẽ không còn có đời sống, loại tâm sanh và diệt ở những khoảnh khắc đó gọi là tâm hộ kiếp (Bhavangacitta). Tâm hộ kiếp theo nghĩa đen có tức thị “yếu tố của đời sống”. Tâm hộ kiếp duy trì sự liên tục trong một kiếp sống. Sau thời điểm tiến trình tâm-sinh-vật lý diễn ra, thông tin được sao lại và lưu trữ trong Bhavanga thì những tài liệu đó thuộc dạng vô thức. Đó là dạng vô thức trong tiềm thức. Còn dạng vô thức thứ hai là những gì diễn ra trong sinh hoạt hàng ngày mà không ý thức được cũng gọi là vô thức. Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và một số hoạt động của ý thức tuy diễn ra trong cuộc sống hàng ngày nhưng này vẫn là tâm vô nhân dị thục, nên vẫn xem như vô thức và vô ký. Chỉ khi có ý thức mới gọi là hữu thức. Hoạt động của hữu thức hay ý thức rất hạn hẹp, chỉ trên mặt bằng, còn hoạt động của vô thức rộng to thêm nhiều. Khi hữu thức không thao tác, như lúc ngủ thì vô thức vẫn thao tác liên tục không ngừng nghỉ nghỉ. Có những điều hữu thức không làm được nhưng vô thức lại làm được, như một học trò ban ngày giải bài toán không ra nhưng ngủ một đêm sáng dậy bỗng thấy ra cách giải.

Theo quan niệm của những nhà tâm lý học phương Tây, vô thức là khái niệm chỉ các hiện tượng lạ tâm lý, hành vi, cảm tưởng tồn tại ở một thành viên mà thành viên đó không sở hữu và nhận thức được, không diễn tả được bằng tiếng nói cho mình và người khác. Đó là hoạt động của hệ thần kinh ngoại hình tháp của con người. Trong trạng thái vô thức, ý thức của con người không hoạt động hoặc hoạt động rất kém. Lúc đó, hệ trung khu thần kinh không kiểm soát về nguyên nhân và hậu quả, không đặt vấn đề có xích mích hay nghi vấn mà chỉ có mục tiêu thỏa mãn yên cầu của bản năng, hành động xẩy ra không có tác động đến không gian và thời kì. Trái lại, những hành vi có ý thức luôn nằm trong phạm vi trách nhiệm, tức thị biết vì sao ta làm điều này và hậu quả về sau ra sao.

Trong cuốn Strangers to Ourselves: Discovering the Adaptive Unconscious, GS Timothy D. Wilson đã cho chúng ta thấy: “Cứ mỗi giây, năm giác quan của con người (mắt thấy, mũi ngửi, tai nghe, mồm nếm và thân cảm xúc) tiếp nhận khoảng tầm 11 triệu ý tưởng từ bên phía ngoài đưa vào tâm. Trong 11 triệu ý tưởng đó thì mắt tiếp nhận hơn 10 triệu ý tưởng để chuyển lên não bộ. Nhưng não bộ trong một giây chỉ có thể phân tích 40 ý tưởng”. Cho nên vấn đề mà các nhà khoa học nêu ra là 10.999.960 ý tưởng không được não bộ phân tích đó đi đâu và có tác động đến ý thức con người hay là không? Do đó, nhà phân tâm học Sigmund Freud mới phát minh ra “Tảng băng tâm lý”. Trong số đó ông ta nhận định rằng phần tiền ý thức (trí tưởng và lưu trữ tri thức) và phần vô thức chiếm đa phần trong tâm tư con người. Vô thức luôn hối thúc, lấn áp ý thức để con người dân có những tư tưởng, lời nói hay hành vi không thể kiểm soát được.

Theo S. Freud, có sự tương quan giữa ý thức và vô thức:

– Ý thức kiểm duyệt và kiềm chế hành vi xúc tiến bởi vô thức: Vô thức thôi thúc tất cả chúng ta thỏa mãn dục vọng cho cái Ta, còn ý thức giúp ta nhận thức thế nào là đúng, thế nào là sai.

– Ý thức có thể hóa giải thông qua vô thức: Vô thức và ý thức liên quan mật thiết với nhau, thiếu một trong hai đều dẫn tới tư duy què quặt. Vô thức đóng vai trò thiết yếu trong quá trình sáng tạo của con người, góp phần tạo nên các thiên tài, vĩ nhân, thần đồng trong mọi nghành nghề dịch vụ từ âm nhạc, hội họa, kiến trúc, khoa học cho tới tâm linh…

Có một tỉ dụ về khoa học: Nhà bác bỏ học Mendeleev (1834-1907) đã phát minh ra bảng phân loại tuần hoàn các chất hóa học sau một giấc ngủ. Đây không phải là việc tình cờ mà là kết quả của khu công trình nghiên cứu lâu dài của não bộ. Tất cả quá trình nghiên cứu được lưu trữ trong vô thức và đúng thời khắc nào đó thì từ trong vô thức những khám phá này được bộc lòi ra mà ta gọi là phát minh. Nói chung thiên tài thế giới là những người dân có trực quan rất cao. Họ có khả năng trực nhận tri thức từ vô thức mà tạo ra những khám phá phi thường. Rất nhiều các phát minh sáng tạo khoa học, các luận thuyết khoa học được khám phá nhờ trực quan của những người dân có trực quan mạnh và nhạy bén.

CÓ Ý THỨC HAY VÔ THỨC PET SCAN HIỂN THỊ RÕ RÀNG

Khoa học nhận định rằng vô thức đã có từ khi mới sinh hay ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ. Điều này rất phù phù hợp với Phật giáo vì Đạo Phật chủ trương khi thần thức mới nhập vào trong noãn bào của người mẹ thì thức (ký ức, kinh nghiệm… của những đời quá khứ tức là A-lại-da thức) đã theo sát đứa bé đó rồi. Vì thế, khi sinh ra có những người dân rất giỏi về những bộ môn khác nhau là vì vậy. Khi lớn lên tất cả chúng ta đi học, thao tác thì ý thức đó trở thành vô thức thông qua hoạt động lập đi lập lại từ lúc nào. Sự tích tụ trong ký ức đó nhà Phật gọi là “Uẩn”.

Vô thức có thể chuyển hóa thành ý thức được không?

Chẳng hạn thuở nhỏ khi vào siêu thị, tất cả chúng ta thường đòi cha mẹ mua món đồ chơi cho bằng được, nếu không thì khóc lóc, giận hờn… Như vậy, hành động đòi mua quà của đứa bé là vô thức vì nó không thể ý thức được hành vi của nó mà chỉ yên cầu theo bản năng thôi. Nhưng khi lớn lên, ý thức được vấn đề, có sự chọn lựa. Bấy giờ, nó mới biết vì sao nó thích, có nên mua hay là không. Do vậy, giữa ý thức và vô thức không có ranh giới rõ ràng. Chúng luôn chuyển hóa lẫn nhau và cũng vì mối liên hệ đó, con người quân bình được đời sống tâm linh, không còn căng thẳng. Tóm lại, vô thức với tính đa dạng và phức tạp vẫn là vấn đề nan giải, khó hiểu khi đối chiếu với khoa học. Hệ thần kinh như ma trận vẫn còn rất nhiều kì lạ mà con người không thể nào hiểu hết được.

Xem Thêm : GIAO DỊCH VIÊN

Theo khái niệm của nhà phân tâm học Sigmund Freud: “Vô thức là những sự kiện tâm linh thành viên, chìm khuất trong góc tối của tâm hồn và không bao giờ biểu hiện, không thể dùng ý chí để tinh chỉnh và điều khiển được. Vô thức là động cơ tiềm tàng, có khi trở thành mãnh liệt, thôi thúc hành động đến mức không kiểm soát được, không phù hợp với lý trí. Vô thức được ví như phần chìm của tảng băng tâm linh, góp phần quyết định trong việc hình thành các khuynh vị trí hướng của mỗi thành viên. Trong cõi vô thức diễn ra cuộc đấu tranh liên tục giữa bản năng với bản ngã và bản năng bị dồn nén lại trong hàng rào kiểm duyệt không cho vượt vùng ý thức được. Nên những xung lực này chỉ biểu hiện phần nào trong giấc mơ và phần lớn trong các chứng loạn thần kinh. Vô thức nằm ở vùng sâu của tâm linh nên không thể thực nghiệm và không thể khảo sát bằng các trắc nghiệm được.”

Thời điểm hiện nay, ta thử phân tích “tảng băng tâm lý” của S. Freud để xem nó có những trùng hợp nào với triết lý của Phật giáo không?

– Mức độ ý thức: Theo Freud có hai phần là suy nghĩ và nhận thức. Đây tương ứng với thức thứ 6 tức là “ý thức” của Phật giáo.

– Mức tiền ý thức: gồm có trí tưởng và lưu trữ tri thức. Như vậy “trí tưởng” tương ứng với tưởng uẩn và “lưu trữ tri thức” thì thuộc về “thức uẩn”.

– Mức vô thức: theo Freud thì “mức vô thức” gồm có “lo sợ, thôi thúc tình dục bị đè nén, các nhu cầu vị kỷ, các trải nghiệm xấu, các yên cầu phi lý…”. Nói chung tất cả những gì Freud diễn tả ở tại mức vô thức không gì khác hơn những tác ý của hành uẩn. Nhưng Freud chỉ gồm có những tác ý bất thiện, những tham vọng bất chánh trong lúc đó “hành uẩn” của Phật giáo lai còn chứa những tác ý thiện, chân chánh nữa.

Trong những khi khoa học hiện nay vẫn còn lò mò về ý thức và vô thức thì Phật giáo đã có nhận định rất rõ ràng ràng sự vận hành của Ngũ uẩn mà trong đó, tất cả những tác ý đều sở hữu thể dùng tỉnh thức chánh niệm để kiểm soát nó. Đức Phật dạy: Thức là tâm vương, là đầu mối cho bất kỳ suy nghĩ, lời nói hay hành động của con người. Còn thọ, tưởng, hành là tâm sở, là những trợ duyên để tâm vương thực hiện ý định đó. sắc, thọ, tưởng, hành, thức là năm giềng mối bổ túc lẫn nhau. Nếu không có thọ, tưởng thì không thể có thức. Cũng như nếu không có sắc thì không thể nào có thọ hay tưởng được. Hiểu biết những biến hành của tâm, hành giả có thể làm chủ thân, khẩu, ý thì cuộc đời sẽ không còn còn hệ lụy khổ đau.

Khi bàn luận về vô thức thì không thể không đề cập đến “Duy thức luận” của Phật giáo vì trong Duy thức luận đã cho thấy một thuyết rất vi diệu về thức và vô thức. Duy thức luận nhận định rằng nguồn gốc của vũ trụ là tâm hay Phật tánh. Khi có niệm phân biệt nổi lên thì tâm trở thành thức. Vũ trụ vạn vật chỉ là thức mà thôi, nền tảng của vũ trụ là thức chứ không phải là vật chất, vật chất chỉ là vọng tưởng.

Tâm có 8 thức gồm có :

– Tiền ngũ thức: 5 thức trước hết là nền tảng, gồm có : nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức và thân thức.

– Thức thứ 6 là ý thức: cái biết tổng hợp từ thông tin của 5 thức đầu.

– Thức thứ 7 là Mạt-na thức (manas): thức chấp ngã của chúng sinh, của con người.

– Thức thứ 8 là A-lại-da thức (alaya) hay Tàng thức: gồm có cả bảy thức trước.

Tuy phân ra 8 thức như vậy nhưng thực tế chỉ là một và gọi chung là tiềm thức. Người đời thường chỉ biết lục căn, lục trần và lục thức gọi chung là 18 giới nhưng không biết Mạt-na thức và A-lại-da thức (tàng thức, vô thức).

Vậy vô thức mà S. Freud đề cập liệu có phải là A-lại-da thức hay là không? Vững chắc là không phải. Vô thức của Freud chỉ là Mạt-na thức mà thôi bởi vì Vô thức mà Freud đề cập là vô thức thành viên, tương ứng với Mạt-na thức. Học trò của Freud là Carl Jung có đề cập tới vô thức tập thể, đó có thể là A-lại-da. Tuy nhiên có một điều mặc cả Freud và Jung đều chưa hiểu, đó là số lượng không có thật (vô lượng) nên mọi phân biệt đều là tương đối, không phải tuyệt đối. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất thiết tức nhất, nhất tức nhất thiết” (Tất cả là một, một là tất cả). Vạn vật dữ ngã nhất thể, chúng sinh bổn vô khu biệt (vạn vật là cùng một thể với ta, chúng sinh vốn không phân biệt).

Não bộ con người có tầm khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh (nơ-rôn). Năm 1920, Wilder Penfield chứng minh được rằng các tế bào Engram nằm trong những vùng nhất định của não bộ có chức năng ghi nhớ. Engram là nhóm tế bào thần kinh hay mạch thần kinh được kích hoạt bởi nhận thức của một số thông tin nhất định. Bộ nhớ phụ thuộc vào điểm kết nối thần kinh giữa các tế bào Engram. Điểm kết nối hoạt động giống như mạch bán dẫn trong con chip tin học.

Tại phòng thí nghiệm sinh vật học Yerkes, Florida, nhà thần kinh học Karl Lashley đã tập tành cho chuột một số kỹ năng rồi cắt bỏ những vùng trong não bộ có liên quan đến kỹ năng đó. Song một điều ngạc nhiên là dù cắt bỏ bao nhiêu đi nữa, kỹ năng được tập tành vẫn tồn tại. Và K. Lashley Tóm lại: Trí tưởng không được lưu trữ tại một nơi nhất định mà phân bổ trong toàn não bộ. Vào năm 1960, Pribram, nhà phẫu thuật thần kinh chuyên nghiên cứu sâu về ký ức, nhân đọc một bài báo đăng trên “Scientific American” về cấu trúc của hologram (toàn ảnh) thì ông hiểu rằng não bộ là một toàn ảnh (hologram). Hologram là một ảnh 2D nhưng khi được nhìn dưới những nhập cuộc chiếu sáng nhất định thì tạo nên một hình ảnh 3D trọn vẹn. Mọi thông tin mô tả vật thể 3D đều được mã hoá trên mặt bằng 2D. Như vậy tất cả chúng ta có hai thực tế 2D và 3D tương đương với nhau về mặt thông tin. Từ thông tin chứa trong 2D có thể phóng hiện thành hình 3D. Một tính chất quan trọng khác của hologram là nếu chỉ lấy một phần của nó người ta cũng tồn tại thể khôi phục được hình ảnh 3D của toàn bộ vật. tin tức chứa trong vô thức hay tàng thức là dạng 2D. tin tức này còn có thể phóng hiện thành thế giới thực tế 3D.

Từ những nghiên cứu trên, người ta có thể hiểu sức mạnh của vô thức hay tàng thức là vô cùng lớn, không thể tưởng tượng nổi. Đó là điều mà Duy thức luận gọi là “Nhất thiết duy tâm tạo” (tất cả đều là vì tâm tạo, tâm tưởng tượng ra như thực). Vô thức chứa vô lượng thông tin. Phật giáo đã có đóng góp giúp nhân loại nắm vững về chính mình mình.

You May Also Like

About the Author: v1000