>> Tri thức
Trong tiếng nói hàng ngày, mọi người đều phải dùng chữ ta (tôi, mình) để xưng hô với nhau. Thời điểm hiện nay nói vô ngã, tức là không có tôi, nghe rất vô lý. Phật giáo khi nói về Vô ngã vẫn thường nhấn mạnh vấn đề là tất cả chúng ta phải nhận rõ năm uẩn vô ngã, không có gì là ta, là của ta; tất cả chúng ta, hay ta, nói gì cũng phải phải có một chủ từ, vậy chủ từ “tất cả chúng ta, hay ta” là ai? Nói tất cả chúng ta vô ngã tức là tất cả chúng ta không có ta? Vậy tức thị sao? Tu hành để đạt được vô ngã có ích gì?
Những người dân không biết giáo lý đạo Phật, lúc nghe đến nói về vô ngã, tức là không có cái Ta thì họ liền phản đối, đây là điều đương nhiên, nhưng trong cả trong giới Phật tử cũng rất nhiều người không hiểu vô ngã. Họ thắc mắc nếu vô ngã, không có Ta thì ai tu, ai chứng? Ai thành Phật? Ai nhập Niết bàn? Ai giải thoát?
Chưa hiểu vô ngã mà biết thọ trì ngũ giới, tu nhân tích đức, ăn chay làm lành để đời sau hưởng phước cũng tốt lắm rồi, đây gọi là Nhân thừa Phật giáo. Hoặc tu thập thiện để kiếp sau tái sinh lên cảnh trời vạn thọ sung sướng, đây gọi là Thiên thừa Phật giáo. Nhưng khởi nguồn từ Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Người yêu tát thừa thì nên phải hiểu vô ngã và dẹp trừ cái ngã.
Vô ngã là gì?
Ngã (hay cái Ta) theo tư tưởng Ấn Độ thời Đức Phật có tức thị chủ tể hay vong linh. Chủ có tức thị có quyền định đoạt, tự do tự tại. Ví như vua là chủ trong nước, có uy quyền tuyệt đối nên vua rất tự tại, muốn ra lệnh gì rồi cũng được, muốn chém ai thì chém, muốn bắt ai thì bắt, muốn đi đâu thì đi (tự do), muốn ở đâu thì ở (tự tại), hoàn toàn theo ý của mình. Tể có tức thị sắp xếp, xét đoán, sai sử, điều hành. Ví như Thừa tướng là vị quan lớn số 1 trong triều, trông nom, sắp xếp mọi việc phụ tá với vua thống trị toàn dân. Ngã là chủ tể tức là ngã có quyền sắp xếp, tinh chỉnh và tự do tự tại. Phần lớn mọi người đều phải có cảm tưởng mình là chủ của thân tâm. Muốn đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, suy nghĩ gì rồi cũng được, cho nên tin chắc rằng trong thân tâm này còn có một ông chủ, hay cái Ta (Ngã).
Vô ngã (anatta) nghĩa đen là “không có ta”, nghĩa bóng có nhiều nghĩa, theo Đại thừa vô ngã có tức thị “vô tự tính”; theo Nguyên thủy vô ngã có tức thị “không phải là ta, không phải là của ta”.
Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya), Tập III, Thiên uẩn, chương I, Tương ưng uẩn, có 183 kinh ngắn, đại ý đều nói về vô ngã, và lặp đi tái diễn hàng trăm lần những đoạn như sau:
“Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã, cần phải rất thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này sẽ không phải của tôi; cái này sẽ không phải là tôi; cái này sẽ không phải tự ngã của tôi”. Do rất thật quán với chánh trí tuệ như vậy, tâm ly tham, được giải thoát, không có chấp thủ các lậu hoặc”.
Ba danh từ “vô thường, khổ, vô ngã”, được lặp đi tái diễn không biết mấy ngàn lần trong năm bộ kinh Nikaya của Phật giáo Nguyên thủy, vì vậy nó luôn là Tam pháp ấn, tức là ba con ấn lưu lại toàn bộ giáo lý Phật Pháp. Sau này còn có những người dân cho Tam pháp ấn là “không, vô tướng, vô tác”, hoặc “vô thường, vô ngã, Niết bàn”, và có người nói đến Tứ pháp ấn là “vô thường, khổ, không, vô ngã”, hoặc “vô thường, vô ngã, không, Niết bàn”, đó là những quan niệm thành viên, bởi vì Phật Pháp chỉ có một vị giải thoát, nếu nương theo một lời dạy của Phật mà tu hành giải thoát thì đó cũng sẽ có thể được xem là pháp ấn.
Sau khoản thời gian thành đạo dưới gốc cây người thương đề, đức Phật đi tìm năm bạn bè Kiều Trần Như thể những bạn đồng tu trước kia và thuyết cho họ bài pháp trước tiên, đó là kinh Chuyển Pháp Luân (Dhamma-cakkappavattana) nói về Tứ diệu đế. Nghe xong tôn giả Kiều Trần Như liền chứng quả Tu- đà-hoàn và sau đó bốn vị kia cũng tuần tự chứng quả, “vĩnh ly trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh, dĩ kiến đạo tích”. Trước kia họ không biết nguyên nhân nào sinh ra khổ, họ tu hoài, tu đủ kiểu khổ hạnh mà vẫn chưa thoát khổ, nay nhờ nắm vững Tứ đế nên mọi tà kiến tiêu tán, xa lìa mọi trần cấu (vĩnh ly trần cấu), đạt được con mắt pháp thanh tịnh (đắc pháp nhãn tịnh), và thấy được dấu đạo (dĩ kiến đạo tích).
Tu-đà-hoàn là quả “Kiến đạo”, quả thánh thứ nhất trong bốn quả thánh Thanh văn. Nhưng thấy đạo mới chỉ là thấy đúng thôi, còn bao nhiêu lậu hoặc, phiền não, tập khí sâu dày từ nhiều kiếp chưa trừ được, nên phải trải qua thời đoạn “Tu đạo” mới trừ được. Ví như người leo núi, khai mạc thấy được ngọn núi và tuyến đường dẫn lên đỉnh núi, nhưng bản thân vẫn còn ở dưới chân núi. Tuy còn ở dưới chân núi nhưng biết rõ là nếu tiếp tục đi trên tuyến đường này thì sẽ tới đỉnh núi. Kiến đạo là mới thấy lối đi, sau đó phải Tu đạo, dứt trừ phiền não, ô nhiễm mới đạt được những quả vị Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và A-la- hán là quả thánh chất lượng cao ví như đỉnh núi.
Sau khoản thời gian năm vị tỳ kheo đã kiến đạo, đức Phật dạy tiếp cho họ bài pháp thứ nhì là kinh Vô ngã tướng, nói về lý Vô ngã để dứt trừ ngã chấp là cơ bản của vô minh phiền não, đưa họ tiến xa hơn và chứng quả A-la-hán, giải thoát khỏi tử sinh luân hồi.
Sau này trong lúc tôn giả Assaji, một trong năm vị tỳ kheo nhóm Kiều Trần Như, đang đi khất thực, với phong thái trang nghiêm giải thoát, tôn giả đã mời ngài Xá Lợi Phất đến hỏi đạo. Tôn giả Assaji đọc lại một bài kệ tóm tắt về lý duyên sinh:
“Các pháp do nhân duyên sinh.
Nhân ấy Như Lai đã chỉ rõ,
và dạy phương pháp để chấm hết,
đó là giáo pháp của bậc Đại Sa môn”.
Nghe qua bài kệ này, ngài Xá Lợi Phất liền chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi về ngài kể lại cho bạn tri kỷ là Mục Kiền Liên nghe và Mục Kiền Liên cũng chứng quả Tu-đà- hoàn. Sau đó hai người tìm về quy-y với đức Phật xin làm môn đệ. Phật dạy cho từng người một đề mục. Ngài Mục Kiền Liên tu tập một tuần sau chứng quả A-la-hán. Ngài Xá Lợi Phất tu tập hai tuần sau chứng quả A-la-hán.
Thế nào là A-la-hán? Đó là người đã hoàn toàn diệt trừ ngã chấp, diệt trừ lậu hoặc phiền não. Do không còn ngã chấp, không còn phiền não nên không tạo nghiệp dẫn đến tái sinh trong tử sinh luân hồi.
Vô ngã là không tướng các pháp theo ý thức bát nhã
Theo Bát Nhã Tâm Kinh: Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách.
Quán Tự Tại Người yêu Tát, chủ thể quan sát, hay hành giả, trong quá trình tư duy thâm thúy (Trí quan sát) mới thấy được ngũ uẩn đều không, nên vượt qua mọi khổ ách.
Khi hành thâm: tức qua một thời kì thực hiện nghiền ngẫm với Trí rộng khắp nhiều phương diện, lúc ấy mới thấy được ngũ uẩn đều không. Không ở đây là hai giai tầng thực tế của Tính Không. Tính Không thứ nhất là Tướng Không của ngũ uẩn (dung thể Không của ngũ uẩn chiếm trong không gian: Tướng không của Sắc và Sắc là Một, tức Sắc không khác Không và Không không khác Sắc) tức là Tự tính Tuyệt đối; còn Tính Không thứ hai là không thật là nó nữa (như Sắc tức thị không tức thị Sắc trong một sát-na đã trở thành không thật là Sắc nguyên thủy: Sắc 0 tuổi và Sắc +1sát-na tuổi) là thực tế giả lập do lộ trình huyễn hóa ngũ uẩn.
Cho nên suy xét kỹ thì thấy rõ mọi khổ ách (là quá khứ: Sắc tức thị không= Sắc sang 1 sát-na thì không còn thật Sắc nguyên thuỷ nữa), khi ở thể không tuyệt đối (hư vô) – không thể chạm vào hư vô được dù ngày nay hay quá khứ. Còn ở thực tế giả lập, khổ ách quá khứ thì ngày nay không còn nữa. Sự khổ cực đã qua đi,tất cả chúng ta chỉ với vương vấn trong ký ức và luôn lập lại bằng ảo giác âm vang trong tiềm thức mà thôi.
Cái Ngã có hiện hữu trong ngũ ấm của tất cả chúng ta hay là không? Ngũ ấm có thể chia ra thành những tư tưởng về Sắc Thụ Tưởng Hành Thức, Quá khứ, Ngày nay và Vị lai. Cái Ngã không thể là tổng số các thời liệu đó, vì lẽ nó không hề có vào bất kì địa hạt vào thời khắc đặc biệt quan trọng nào. Ngũ ấm giai không nên không thể là năm cái tôi. Quá khứ đã qua không còn nữa, làm thế nào cái tôi thuộc về Ký ức. Tương lai không tới, thì làm thế nào có cái Tôi được. Chỉ từ ngày nay. Để tồn tại, cái tôi cần phải có đặc tính rõ ràng, phải thường hằng định hình chứ không phải chợt có chợt không . Nhưng nó không có hình thể, sắc tố xứ sở, nhất định. Càng tìm, càng không tìm ra nó. Cái Tôi chỉ là một chiếc nhãn hiệu dán lên ngũ ấm một sự hiện hữu liên tục.
Nhận định như vậy giúp con người giảm nhẹ đi ý niệm xem “cái Tôi” như thể một thực thể tối thượng bắt buộc chúng muốn những gì tất cả chúng ta thích và ghét bỏ những gì tất cả chúng ta không ưa. Cảm giác về cái Tôi đó khiến cho con người tách rời thoát khỏi thiên hạ. Và cũng chính từ những tình cảm yêu ghét sai lạc đó, dấy lên những tư tưởng và tình cảm khởi điểm cho những lời nói và hành động đưa đến Đau Khổ. Khám phá bằng kinh nghiệm trực tiếp, bằng phân tích, bằng thiền định rằng cái “Ngã” không thật có (hay cái vô ngã), sẽ là một diẽn trình đi đến giải thoát. Như giảng giải trong kinh Bát Nhã thì ngũ uẩn hay ng ũấm đều phải có tính không hay ngũ ấm vô ngã.
Lợi ích của vô ngã
Giáo lý vô ngã là nền tảng, là cơ bản của đạo Phật, tất cả chúng ta hãy xét đến lợi ích của vô ngã trên hai phương diện: đời sống hàng ngày và trên tuyến đường đạo.
Trong đời sống hàng ngày, tất cả chúng ta khổ cực phiền não vì tham, sân, si, giận hờn, ưa ghét, buồn lo, … tất cả những thứ phiền não đó có là vì chấp ngã mà ra. Vì khi tham thì ai tham? Tham cho ai, vì ai? Khi tham thì Ta tham chứ ai vào đây. Ta tham cho Ta, cho vợ con của Ta, cho gia đình của Ta, vì quyền lợi của Ta.
Khi sân thì ai sân? Vì sao sân? Khi sân thì Ta sân. Ta sân tại vì người khác làm trái ý Ta. Khi ưa thì ai ưa? Khi ghét thì ai ghét? Khi ưa thì Ta ưa, ưa những thứ làm cho Ta vừa lòng. Khi ghét thì Ta ghét, ghét những thứ làm cho Ta tức bực, khó chịu.
Khi có nội kết thì ai có? Vì sao có nội kết? Khi có nội kết thì Ta có. Có nội kết bởi vì người khác làm tổn thương Ta, danh dự của Ta, tình cảm của Ta.
Chấp ngã nhiều chừng nào thì khổ đau nhiều chừng đó. Trái lại, tu tập vô ngã nhiều chừng nào thì bớt khổ nhiều chừng đó.
Do chấp ngã nên sinh ra đủ thứ phiền não liên quan đến ngã sở và ngã kiến. Ai đụng vào ngã sở như nhà cửa, vợ con, tài sản, quyền lợi của Ta thì Ta nổi sân lên, không sân được thì lo sợ mất. Người tu tập vô ngã không còn chấp tài sản là của Ta thì khi bị mất mát sẽ không còn khổ cực bằng người chấp ngã.
Do chấp ngã kiến, tức là cho ý kiến của Ta lúc nào thì cũng phải, cũng đúng, nên sinh ra cãi nhau, tranh chấp phải trái, hơn thua, lời qua tiếng lại, tệ nữa là tới đánh nhau, giết nhau. Người tu vô ngã trở thành khiêm cung, không ngã mạn, khoe khoang, nên được mọi người thương mến. Người tu vô ngã thoạt tiên chưa thuần thục còn bị khổ cực trước một lời nói ác độc. Khi tu khá hơn thì ngã chấp tiêu mòn, nếu bị chửi chỉ với thấy khổ sơ sơ. Cuối cùng khi ngã chấp không còn thì mọi khổ cực đều tan biến.
Vì thế nên biết vô ngã đó chính là Niết bàn. Vì Niết bàn có tức thị tịch diệt, là một trạng thái không còn bóng hình khổ đau.
Kinh Pháp Cú (câu 81) có nói:
“Như ngọn núi kiên cố
Không gió nào lay động
Cũng vậy, giữa khen chê
Người trí không dao động”.
Người trí ở đây đó chính là người đã thấu rõ lý vô ngã.
Trên tuyến đường tu đạo, vô ngã rất quan trọng và cấp thiết, không thể bỏ qua được. Cũng vì không hiểu, không biết lý vô ngã nên nhiều người tu lâu mà càng xa đạo, càng chấp ngã, chấp danh, chấp tướng.
Tu vô ngã thì làm các việc phước thiện như bố thí, cúng dường sẽ không còn cần chùa hay thầy phải ghi tên mình vì hiểu không có một chiếc Ta bố thí mà chỉ có một sự bố thí. Đây gọi là Bố Thí Ba La Mật.
Tu vô ngã thì giữ giới trở thành tự nhiên, không còn cái Ta nào bị gò bó hay quán triệt.
Tu vô ngã thì nhẫn nhục trở thành dễ dàng, vì không còn thấy có Ta bị chửi, bị nhục.
Tu vô ngã thì thiền định sáng suốt không bị vọng tưởng mê hoặc. Khi những ý niệm tốt xấu khởi lên trong tâm liền biết rõ: “Đó chỉ là những ý niệm hiện khởi”, ngoài ra không có một chiếc Ta nào tốt hay xấu.
Tu vô ngã tức là trí tuệ ba la mật. Trí tuệ ba la mật, còn gọi là bát nhã ba la mật, tức trí tuệ thấy chư pháp vô ngã.
Tu vô ngã tức là thực hiện Kinh Kim Cang, xa lìa bốn tướng chấp: ngã, nhân, chúng sinh, thụ giả.
Tu vô ngã để hành Người yêu tát đạo, vì người thương tát thường cứu độ chúng sinh mà không thấy có Ta là người cứu độ, có chúng sinh là người được độ.
Nhờ vô ngã nên Người yêu tát sẵn sàng xả thí thân mạng, ra vào tử sinh, chịu đựng khổ đau để cứu khổ chúng sinh.
Quan niệm vô ngã trong tư tưởng Phật giáo chỉ để lột xác cái ngã dẫy đầy tham sân si ngã kiến và dục vọng, hệ lụy đến khổ ưu, tử sinh luân hồi của kiếp người, nguyên ủy là vô minh, vốn che lấp cái tâm trong sáng tự bản tính. Vô ngã có thể là pháp trong sạch hóa cái tâm, để tâm trống rỗng. Có thể vô ngã là hình thức vô tự tính sự vật và hư vô hóa mọi hữu tồn trong tâm. Khi tâm được trong sáng là lúc trí tuệ hiện ra. Tuệ giác là cái biết sát-na hiện tiền, là cái biết vô thời không thì làm gì có cái ngã xen vào (sở tri). Phật đã giải rõ trong kinh Pháp Môn Căn Bản, “trong sự hiểu biết là việc giải thoát”. Vô ngã là việc giải thoát khỏi cái ngã, hay cái thân là rừng tội nghiệp. Quan niệm vô ngã chỉ là việc nhận thức của tâm. “Sự thực là tâm vốn xoành xoạch thanh tịnh tư bản tính kia (vô ngã) nhuóm bởi những tạp nhiễm ngoại lai (cái ngã).
Tứ diệu đế, vô ngã, duyên sinh là những giáo lý cơ bản, nền tảng của đạo Phật. Nhờ những giáo lý này mà không biết bao nhiêu môn đệ của Phật đã chứng quả giải thoát, trở thành những thánh tăng, tăng bảo, xứng danh là ruộng phước cho trời người cúng dường.