Hồ sơ – Sự kiện – Nhân chứng

Chúng tôi rất vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Undp la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa và chiến lược hiệu quả. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi để cập nhật kiến thức mới.

Tất cả những nước là thành viên Liên hợp quốc hoặc là thành viên của một trong những tổ chức trình độ của mạng lưới hệ thống Liên hợp quốc, hoặc là thành viên của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đều phải có thể trở thành thành viên của UNDP.Trong mạng lưới hệ thống Liên hợp quốc, UNDP đã trở thành cơ quan viện trợ kĩ thuật lớn số 1 với hai tính chất viện trợ cơ bản là chuyển giao công nghệ và chuẩn bị sẵn sàng cho góp vốn đầu tư (hay tiền góp vốn đầu tư) theo từng chu kì 5 năm cho lớp học quốc gia của tương đối nhiều nước. Cơ quan lãnh đạo là Ban Điều hành gồm 36 thành viên (Châu Phi 8, Châu Á Thái Bình Dương – Tỉnh Thái Bình Dương 7, Đông Âu 4, Mĩ Latinh và Caribê 5, Tây Âu và khu vực khác 12) do Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu với nhiệm kì 3 năm; họp mỗi năm gấp đôi, tuần tự tại Niu Yooc (Thành Phố New York) và Giơnevơ (Genève). Cơ quan túc trực là Ban Thư kí và các cục, vụ chuyên ngành tại trụ sở Niu Yook và cơ quan thay mặt UNDP tại Giơnevơ. Tổng giám đốc hiện nay là ông Mark Malloch Brown (nhiệm kỳ 1999 – 2003 và 2003 đến 2007).

Bạn Đang Xem: Hồ sơ – Sự kiện – Nhân chứng

Xem Thêm : Đá cẩm thạch (Jadeite): Ngọc quý đắt đỏ hàng đầu thế giới

1. Cơ cấu tổ chức – tổ chức và hoạt động Cơ cấu tổ chức tổ chức

UNDP là cơ quan trục thuộc Đại Hội đồng Liên hợp quốc, chịu sự chi phối của Đại Hội đồng và ECOSOC. Đại Hội đồng quyết định các vấn đề chính sách lớn, ECOSOC xác định các nguyên tắc, quy chế hoạt động.v.. Người đứng đầu UNDP được gọi là Tổng Giám đốc (Admmistrator) do Tổng Thư ký Liên hợp quốc bổ nhiệm. Cơ quan quyền lực chất lượng cao là Hội đồng Chấp hành (Executive Board) gồm 36 nước thành viên phân bổ theo khu vực địa lý (châu Phi – 8; Châu Á Thái Bình Dương- 7; Trung Âu – 4; Mỹ Latinh và Caribê – 5; Tây Âu và các nước khác – 12), có nhiệm kỳ 3 năm. Hội đồng Chấp hành là cơ quan vô thượng xem xét, phê duyệt các lớp học viện trợ cho những nước, khu vực và kiến nghị chính sách và phương hướng hoạt động của mình lên ECOSOC. Việt Nam là thành viên Hội đồng Chấp hành nhiệm kỳ 2000-2002, song song là Phó Chủ toạ Hội đồng Chấp hành năm 2000 và 2001. Nguồn vốn và cơ cấu tổ chức viện trợ UNDP là tổ chức viện trợ phát triển lớn số 1 mạng lưới hệ thống Liên hợp quốc hiện nay: Vốn của UNDP chủ yếu là nguồn đóng góp tự nguyện của tương đối nhiều nước thành viên, các tổ chức, member. Trung bình thường niên UNDP quản lý khoảng tầm 2,3 tỷ USD viện trợ thông qua các nguồn vốn thường xuyên (core resources), không thường xuyên (non-core resources) và các nguồn đồng tài trợ khác (co-financing or cost-sharing resources). 90% viện trợ từ nguồn vốn thường xuyên của UNDP được dành cho những nước nghèo, nơi chiếm 90% tỷ lệ nghèo đói của thế giới hiện nay. Viện trợ của UNDP là viện trợ không hoàn trả được thực hiện dưới dạng lớp học quốc gia có thời kì 5 năm gồm có hồ hết các nghành nghề và ngành tài chính của tương đối nhiều quốc gia. Các lớp học quốc gia được xây dựng dựa trên những ưu tiên của chiến lược phát triển tài chính – xã hội và kế hoạch 5 năm của nước nhận viện trợ và các mục tiêu ưu tiên trong từng thời kỳ của UNDP. Ngân sách dự kiến viện trợ cho những lớp học của tương đối nhiều nước nhận viện trợ do hội đồng Chấp hành UNDP thông qua. Lớp học quốc gia là phạm vi hợp tác của UNDP với nước nhận viện trợ. Trên cơ sở lớp học quốc gia, UNDP phối phù hợp với cơ quan chính phủ xây dựng các lớp học dự án cụ thể. Phương thức tiếp cận để thực hiện các lớp học quốc gia của UNDP từ trước năm 2000 là tiếp cận bằng các dự án cụ thể. Nhưng Tính từ lúc năm 2000, UNDP chuyển mạnh sang phương thức tiếp cận bằng các lớp học (cụm vấn đề). UNDP song song quản lý vốn của một số quỹ khác ví như Quỹ Góp vốn đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ Phát triển phụ nữ (UNIFEM), Lớp học Những người dân tự nguyện Liên hợp quốc (UNV)…Đối tác của UNDP gồm các Quỹ và Lớp học viện trợ khác thuộc mạng lưới hệ thống phát triển Liên hợp quốc, các tổ chức tài chính, tín dụng thanh toán quốc tế như Nhà băng Thế giới (WB), Qũy Tiền tệ quốc tế (IMF), các nhà băng khu vực và các tổ chức phi Chính phủ nước nhà. Tôn chỉ mục tiêu và hoạt động Trợ giúp nỗ lực của tương đối nhiều quốc gia nhằm đạt được mục tiêu phát triển con người vững bền, bằng phương pháp tương trợ các quốc gia xây dựng năng lực trong việc thiết kế và thực hiện các lớp học phát triển nhằm xoá bỏ nghèo đói, tạo công ăn việc làm và tìm phương cách mưu cầu sự sống vững bền, nâng cao vị thế của phụ nữ, bảo vệ và tái tạo môi trường tự nhiên, ưu tiên hàng đầu cho xoá đói giảm nghèo. Các nguồn lực của UNDP cần phải được sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả nhất để đem lại tác động tối đa tới sự phát triển tài chính, xã hội của tương đối nhiều nước nhận viện trợ. Khuyến khích nâng cao sự tự chủ của tương đối nhiều nước đang phát triển khi đối chiếu với năng lực quản lý, kỹ thuật, hành chính và những nghiên cứu cấp thiết để xây dựng và thực hiện các chính sách và kế hoạch phát triển của tương đối nhiều nước. Hoạt động của UNDP tập trung tăng cường hợp tác quốc tế vì sự nghiệp phát triển; trợ giúp việc tăng cường khả năng quản lý quốc gia, sự tham gia rộng rãi hơn của nhân dân, phát triển khu vực quốc gia và tư nhân, sự tăng trưởng công minh. Các lớp học và dự án tương trợ của UNDP được xây dựng dựa trên cơ sở các kế hoạch và ưu tiên quốc gia và các ưu tiên trong chính sách củaUNDP. Trợ giúp của UNDP xuất phát từ yêu cầu của tương đối nhiều cơ quan chính phủ và các nghành nghề ưu tiên của UNDP. Các nghành nghề tương trợ của UNDP là: Thực hiện các nghiên cứu về chiến lược, chính sách và đưa ra các khuyến nghị; cung cấp các dịch vụ về tư vấn kỹ thuật; thực hiện các nghiên cứu khả thi, tiền khả thi; tiến hành các phân tích và xếp loại thực trạng, nghiên cứu tổng quan và xây dựng các quy hoạch tổng thể; Thực hiện các nghiên cứu xếp loại thực trạng và đưa ra các khuyến nghị về phát triển tổ chức và thiết chế, nghiên cứu xếp loại các chính sách, luật lệ và quy chế có tác động đến việc thực thi thiết chế, tương trợ trong việc phân tích và phát triển, và lắp ráp các mạng lưới hệ thống quản lý như lập kế hoạch, thông tin, giải trình lập ngân sách, kế toán… Huấn luyện về khoa học kỹ thuật, quản lý, nghề nghiệp, kỹ năng trình độ. Trao đổi thông tin và tổ chức tham quan, khảo sát, hội thảo chiến lược và tập huấn; Tương trợ nghiên cứu về phát triển và thực hiện các sắp xếp về tổ chức để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ được giao. Giúp xếp loại và xây dựng cơ chế phối hợp giữa những cơ quan có liên quan trong công việc quản lý; Tương trợ chuyển giao công nghệ phù hợp, khuyến khích và trợ giúp phát triển năng lực công nghệ quốc gia. Trợ giúp việc thiết lập và nâng cấp các phương tiện vật chất và trang thiết bị. Từ thời điểm năm 2000, UNDP chuyển mạnh theo phía tư vấn vi mô các vấn đề về thiết chế, chính sách cũng như tăng cường năng lực tập trung cho các hoạt động sinh hoạt tương trợ các nước đang phát triển thực hiện tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và xoá đói giảm nghèo. Các dự án trợ giúp kỹ thuật và tăng cường năng lực của UNDP cũng ngày càng gắn với tương trợ xây dựng các chính sách phục vụ phát triển của tương đối nhiều nước nhận viện trợ.

2. Phương hướng hoạt động

Xem Thêm : Tin tức

Trong thời kì tới, UNDP sẽ tiếp tục tập trung phát huy bốn ưu tiên để giúp UNDP chuyển mạnh theo phía tư vấn vĩ mô: thực hiện tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ; hoạt động có hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực, phát triển công nghệ thông tin. Song song, sẽ bổ sung thêm hai ưu tiên khác là: ủng hộ nỗ lực cải tổ Liên hợp quốc của Tổng Thư ký;cải thiện nguồn tài chính hiện có cụ thể: Về các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG): UNDP sẽ tập trung: a) Đạt được những kết quả tại Lever quốc gia:UNDP giữ vững tốc độ hiện nay và tiếp tục tăng cường quá trình giải trình MDG, các sản phẩm và các bước đi tiếp theo để các giải trình MDG trở thành một phương tiện xúc tiến phát triển; b) Phối phù hợp với các tổ chức Liên hợp quốc tại quốc gia nâng cao nhận thức về MDG trong mạng lưới hệ thống Liên hợp quốc và trên thế giới; c) Tăng cường năng lực theo dõi và phân tích sử dụng quy định của MDG; d) Xúc tiến phương thức điều hành quốc gia bằng phương pháp giúp quốc gia giãi bày những ưu tiên của mình trong quá trình tư vấn và cung cấp thông tin cơ bản giúp tất cả những bên có thế tham gia có ý nghĩa vào quá trình tư vấn; e) Hợp tác với Nhà băng Thế giới và các nhà băng phát triển khu vực; f) Sắp xếp các lớp học và chính sách để thể hiện tầm quan trọng của nhiệm vụ mới của UNDP về MDG. Ngăn chặn khủng hoảng toàn diện và tái thiết sẽ là mục tiêu được quan tâm đặc biệt quan trọng trong thời kì tới. UNĐP sẽ tăng cường năng lực của tương đối nhiều viên chức, vận động các nhà tài trợ, và đảm bảo việc phân phối các dịch vụ xã hội cơ bản. Trong nghành nghề hoạt động có hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực, UNDP sẽ tập trung vào tính thống nhất của kế hoạch hành động, xếp loại tính khả thi của lớp học. Với những hạ tầng cơ bản đã có, trọng tâm hoạt động sẽ tiến hành chuyển sang phát triển các nội dung bổ sung cho những sản phẩm và dịch vụ sáng tạo và nhạy bén hơn mà các văn phòng quốc gia có thể đóng góp cho những kế hoạch ưu tiên quốc gia. UNDP sẽ mở rộng mạng lưới toàn cầu để các khách hàng từ bất kỳ đâu, bên trong UNDP, tại những quốc gia các tổ chức Liên hợp quốc và cộng đồng phát triển, đều phải có thể hưởng lợi từ tri thức, tri thức, và các kinh nghiệm. Về cải tổ Liên hợp quốc, UNDP sẽ tích cực tương trợ nỗ lực của Tổng Thư ký nhằm cải tổ Liên hợp quốc. Một số hoạt động chính gồm đơn giản và hài hoà hoá các mô hình thực hiện lớp học của tương đối nhiều tổ chức Liên hợp quốc tại quốc gia để tăng hiệu quả viện trợ và sự hợp tác, giảm ngân sách thanh toán cho những đối tác. Về nguồn tài chính, UNĐP sẽ tiếp tục sắp xếp các lớp học toàn cầu và quốc gia phù phù hợp với các nghành nghề hoạt động, quá trình hoạt động, nguồn huy động tài chính. Những khoản góp vốn đầu tư cho UNDP thông qua các kế hoạch công việc sẽ tiến hành thiết chế hoá.

3. Quan hệ hợp tác Việt Nam- UNDP

Việt Nam ký Hiệp nghị hợp tác với UNDP ngày 21 tháng 3 năm 1978. Với vai trò là một cơ quan tài trợ của Liên hợp quốc, UNDP khai mạc thực hiện lớp học tương trợ tại Việt Nam từ 1978. Từ đó đến nay, UNDP đã thực hiện cho nước ta sáu lớp học viện trợ với tổng số vốn khoảng tầm 430 triệu USD. Nhìn chung các lớp học viện trợ của UNDP cho Việt Nam được xếp loại là thực hiện tốt, có hiệu quả. UNDP coi Việt Nam là một tiêu biểu trong quan hệ hợp tác giữa UNDP với những nước. Qua các lớp học dự án của mình, UNDP đóng góp đáng kể vào quá trình xây dựng và thực hiện chính sách đổi mới, nhất là trong các nghành nghề tài chính, pháp luật, hành chính. Xây dựng kế hoạch phát triển tổng thể cho nhiều ngành, địa phương và tích cực tương trợ công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta, (nhất là trong việc huy động viện trợ, giúp Chính phủ nước nhà điều phôí viện trợ, hội nhập khu vực và thế giới và một số nghành nghề cải cách thiết chế nhạy cảm gồm có việc phát triển phạm vi pháp lý và cải cách hành chính. Quan hệ hợp tác Việt Nam – UNDP có thể chia làm ba thời đoạn. Từ 1977 đến vào giữa thập kỷ 80: Tương trợ tái thiết sơn hà và chuyển giao công nghệ. Theo yêu cầu của Việt Nam, các dự án của UNDP chủ yếu tập trung vào tương trợ phục hồi và nâng cấp năng lực sinh sản, đặc biệt quan trọng tăng dần sinh sản hàng hoá thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Các dự án thời đoạn này thường có tỷ trọng lớn về thiết bị (chiếm tới 50 – 70% tổng ngân sách dự án) như dự án phục hồi xí nghiệp điện Thủ Đức máy dệt và xí nghiệp đường ở Thành phố Hồ Chí Minh, cải thiện trang thiết bị dịch vụ mặt đất cho những sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, TP. Đà Nẵng, Quy Nhơn… Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai UNDP đã rất coi trọng chuyển giao công nghệ, bí quyết kỹ thuật thông qua việc tương trợ Việt Nam xây dựng và nâng cao năng lực cho một loạt các viện nghiên cứu và quy hoạch nông nghiệp (như Viện Khoa học Nông nghiệp, Viện Phân bón và Thổ nhưỡng…); cải tiến các giống cây trồng và vật nuôi (lúa, ngô, cây công nghiệp, cá, tôm…); và nâng cao chất lượng sản phẩm các sản phẩm công nghiệp (hàng dệt, nhựa, cao su đặc, hoá chất cơ bản…) Từ vào giữa thập kỷ 80 đến vào giữa thập kỷ 90: Tương trợ thực hiện tiến trình đổi mới và mở cửa UNDP đã hỗ trợ Việt Nam xếp loại và xây dựng quy hoạch phát triển một số vùng lãnh thổ và ngành tài chính như: quy hoạch tổng thể đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng; quy hoạch tổng thể ngành du lịch và hàng không gia dụng; giải trình tổng quan ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, giáo dục. UNDP đã và đang dữ thế chủ động tương trợ Chính phủ nước nhà chuẩn bị sẵn sàng giải trình phân tích tình hình tài chính Việt Nam. Những giải trình và tài liệu này đã hỗ trợ Việt Nam, Nhà băng thế giới và UNDP cùng phối hợp tổ chức thành công Hội nghị Tài trợ quốc tế trước nhất năm 1998, đặt nền tảng cho thành công tiếp theo của tương đối nhiều Hội nghị thường niên của Nhóm các nhà tài trợ sau này. Từ vào giữa thập kỷ 90 đến nay: Xúc tiến cải cách thiết chế, xóa đói giảm nghèo và phát triển vững bền Từ 4-1995, theo yêu cầu của Việt Nam, UNDP tổ chức và chủ trì Forums Nhóm các nhà tài trợ. Forums đã góp phần tăng cường sự tin cậy lẫn nhau và sự hiểu biết chung về các vấn đề và ưu tiên phát triển quốc gia, trong đó có xoá đói giảm nghèo, cải cách tài chính công, hiệu quả sự dụng ODA, cải cách pháp luật, cải cách hành chính công, cải cách thương nghiệp.. UNDP đã support cho Việt Nam xây dựng và đưa vào thực hiện có hiệu quả Luật Doanh nghiệp, góp phần đơn giản hoá thủ tục hành chính và huỷ bỏ nhiều loại giấy phép, thông qua đó cắt giảm đáng kể gánh nặng và ngân sách về thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp. UNDP đã và đang tương trợ xây dựng chiến lược phát triển tài chính – xã hội 10 năm 2001-2010, hiện nay đang là đường lối chỉ huy quá trình phát triển sơn hà trong trong năm tới. Trong chu kỳ luân hồi 2001-2005, UNDP đã cung cấp 41,30 triệu USD viện trợ không hoàn trả cho Việt Nam. Với sự tương trợ của UNDP và một số nhà tài trợ khác. Việt Nam đã phê duyệt và công bố chiến lược cải cách hành chính quốc gia 2001-2010 và dự thảo chiến lược cải cách pháp luật cho l0 năm tới, đặt nền tảng cho những bước cải cách hành chính và pháp luật mạnh mẽ sâu rộng hơn. UNDP đã có nhiều hoạt động tương trợ việc xây dựng sườn pháp luật tài chính cho Việt Nam như. tổ chức nghiên cứu chuyên đề, cung cấp Chuyên Viên tư vấn pháp luật quốc tế, tổ chức toạ đàm. Những hoạt động sinh hoạt này đã góp phần giúp những cơ quan có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi và phát hành một mạng lưới hệ thống pháp luật tài chính đồng bộ, toàn diện, sáng tỏ hơn và có tính khả thi lơn hơn: Luật Ngân sách, Luật Thương nghiệp, Luật Tài nguyên, luật dầu khí, luật góp vốn đầu tư nước ngoài… Song song, UNDP giúp tăng cường năng lực chỗ nhiều cơ quan pháp luật như: Văn phòng Quốc hội, Bộ Tư pháp, Toà án Nhân dân vô thượng, Viện Kiểm sát Nhân dân vô thượng, Bộ Nội vụ, và nhiều cơ quan của tương đối nhiều tỉnh thành. UNDP cung khai mạc tập trung nhiều hơn và giúp Việt Nam thực hiện xoá đói, giảm nghèo, phát triển con người vững bền. Nhiều dự án đã được thực hiện ở một số tỉnh nghèo nhất ở miền Bắc, miền Trung, và miền Nam. Những bài học kinh nghiệm kinh nghiệm của tương đối nhiều dự án này đã được lồng ghép vào lớp học. Mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm và Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói- giảm nghèo mà UNDP đóng vai trò tư vấn. Không chỉ có vậy, UNDP đã và đang tương trợ Việt Nam tăng cường các chính sách tương trợ những nhóm và cộng đồng dễ bị xâm hại như các dân tộc bản địa thiểu số, những người dân di dân ở khu vực nông thôn và những người dân bị nhiễm HIV/AIDS. UNDP đã phối hợp tương trợ Việt Nam tăng cường vai trò của phụ nữ trong quá trình ra quyết định, nâng cao nhận thức của hiệp hội cộng đồng về đồng đẳng nam nữ, xúc tiến sự tiến bộ và nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội.

You May Also Like

About the Author: v1000