10 Kiết sử là những gì

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Kiet su la gi và hy vọng rằng nó sẽ hữu ích cho bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với các chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng rằng thông tin mà chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật những kiến thức mới nhất.

Kiết là trói buộc; Sử là sai khiến. 10 Kiết Sử là mười thứ phiền não cơ bản trói buộc và sai khiến tất cả chúng ta, gồm có: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến. 10 Kiết sử còn gọi là Tập Đế, tức là 10 nguyên nhân cơ bản sinh ra vô hạn thứ khổ của kiếp nhân sinh. Chúng có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho thoát khỏi ba cõi. Chúng sai sử làm chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi; Từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ não.

Bạn Đang Xem: 10 Kiết sử là những gì

  • Luật Nhân quả là gì.
  • Luân hồi là gì.
  • Tứ Diệu Đế là gì.
  • Lời Phật dạy về Đạo hiếu
  • Chuyện tâm linh có thật.
  • Sự thực về hạn Tam tai.
  • Sự thực về Cầu cơ.
10 Kiết Sử là gì
10 Kiết Sử là gì

Tính chất của mười món cơ bản phiền não này rất khác nhau: Có thứ nhanh nhẹn, có thứ chậm chạp; Có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; Có thứ đâm sâu gốc rễ trong tâm người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý thức; Có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó xoá sổ. Vì tính chất không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc.

10 Kiết Sử

Phật dạy: Cội gốc của sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những dục vọng xấu xa; Là những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm tất cả chúng ta. Phiền não rất nhiều. Nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn, nói hẹp lại thì có mười phiền não gốc, gọi là cơ bản phiền não. Do mười Kiết sử nầy mà sanh ra vô số phiền não ngành ngọn.

10 Kiết Sử: 1. Tham

Tham tức là tham lam. Tánh tham có động lực bắt ta dòm nom, theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở v.v…Nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để tầm kiếm cho được những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất là lòng tham không có đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; Được một muốn có mười, được mười muốn có trăm. Tham cho mình chưa đủ, còn tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình.

Cũng vì tham mà cha mẹ vợ con xung đột; Cũng vì tham mà bè bạn chìa lìa; Cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau; Cũng vì tham mà cuộc chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết bo sanh linh. Tóm lại, cũng vì tham mà nhân loại, chúng sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ. Tham không những hại cho mình và cho tất cả những người, trong ngày nay mặc cả đến tương lai nữa.

10 Kiết Sử: 2. Sân

Sân tức là nóng giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng không như ý nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mũi đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô bỉ, nói năng hung hãn. Có khi sử dụng đến võ lực hay vũ khí để hạ kẻ đã làm trái ý, phật lòng ta. Vì nóng giận mà cha mẹ, vợ con, bạn hữu xa lìa, bầy đàn ly tán; Vì nóng giận mà đồng bào trở thành thù địch, nhân loại đua nhau ra chiến trường; Vì nóng giận mà kẻ bị tật nguyền, người vào nhà lao, kẻ mất vị thế, người tan sự nghiệp.

Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, tức là một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Sách Phật chép: “Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”. Tức thị một đốm lửa giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại, và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp mà nhân loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên.

10 Kiết Sử: 3. Si

Si tức là si mê, mờ ám. Si như thể một tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí huệ của ta. Làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thực, suy đoán được cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi; Làm hại mình, hại người mà không hay. Vì si mà lòng tham trở thành không đáy. Bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của tham, thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham. Vì si mà lửa sân tự do bùng cháy; Nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như vậy.

Xem Thêm : Môi trường vi mô là gì? Các yếu tố cơ bản và ví dụ về môi trường vi mô?

Tổ sư đã dạy: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì”. Tức thị không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si mê. Thật đúng như vậy: Nếu tham, sân nổi lên, mà có trí sáng suốt ngăn chận lại, thì tham, sân tất kiềm chế được. Nếu có trí huệ, sáng suốt thì tham, sân không thể tồn tại được; Như khi đã có ánh sáng mặt Trời lên, thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến. Ba tánh tham, sân, si này, Phật gọi là ba món độc; Vì do chúng nó mà chúng sanh phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

10 Kiết Sử: 4. Mạn

Mạn tức là kiêu mạn, tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; Tự thấy mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; Ỷ mình có tiền tài, tài trí, quyền vậy mà dương dương tự mãn; Khinh người già lão, xấc xược với những người tiết hạnh, giày xéo người dưới, lấn lướt người trên. Vì lòng ngã mạn cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe lời nói phải. Do đó, làm nhiều điều nhầm lẫn sai quấy, phước lành tổn giảm, tội lỗi càng tăng; Phải chịu sanh tử luân hồi không bao giờ cùng. Mạn có bảy thứ:

  1. Mạ: Hơn người ít, mà nghĩa mình hơn nhiều.
  2. Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người.
  3. Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng.
  4. Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
  5. Tăng thượng mạn: Chưa chứng thánh quả mà cho tôi đã chứng.
  6. Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít.
  7. Tà mạn: Người tu về tà giáo, được chút ít thần thông; Hoặc hiểu biết được đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.

10 Kiết Sử: 5. Nghi

Nghi tức là nghi ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không tạo nên sự được việc gì hết. Ðối với những người thân trong gia đình, họ không tin cậy uỷ thác công việc; Khi đối chiếu với bầy đàn, họ nghi ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay khi đối chiếu với mình, họ cũng không tự tín nữa. Ðã không tự tín, họ còn gây hoang mang cho tất cả những người chung quanh, làm cho tất cả những người thế gian ngã lòng, thối chí. Ðối với đạo lý chân chánh, họ cũng không tích cực tin theo. Những pháp tu giải thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm. Nghi có ba phương diện:

*

1. Tự nghi: Tức thị nghi mình. Ví dụ như nghe chư Tăng bảo: “Tu hành sẽ tiến hành giải thoát”, nhưng lại tự nghi rằng: “Chẳng biết mình tu đã đoạt không?”. Vì lòng do dự nghi ngờ ấy, nên không tu.

2. Nghi pháp: Tức thị nghi phương pháp mình tu. Ví dụ như nghe kinh Di Ðà nói: “Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho tới bảy ngày, được nhất tâm bất loạn. Đến khi lâm chung sẽ tiến hành Phật Di Ðà tiếp đãn sanh về nước Cực lạc”; Nhưng họ lại nghi ngờ “Phương pháp ấy không biết có kết quả đúng như vậy không? ” Do sự nghi ngờ này mà không tu.

3. Nghi nhơn: Tức thị nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: “Làm lành sẽ tiến hành phước, làm ác sẽ bị tội”; Nhưng lại nghi rằng: “Chẳng biết người này nói có thật không “. Do sự nghi ngờ ấy mà không làm. Tóm lại, tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển của mình; Ngăn ngại mọi công việc hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt thoát khỏi cảnh tối tăm khổ sở.

10 Kiết Sử: 6. Thân kiến

Thân kiến tức là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Vì cái chấp sai trái ấy, nên thấy có một chiếc Ta riêng biệt, chắc thật không chuyển đổi. Thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không dính dấp đến người khác, và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm như vậy, nên kiếm món ngon, vật lạ cho ta ăn; May sắm quần áo tốt đẹp co Ta mặc, lo xây dựng nhà cao, cửa lớn cho Ta ở; Thâu góp thật nhiều tài sản, đất ruộng để dành riêng cho Ta hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng phụng sự cho cái Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi; Giày xéo lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ khổ cực vì Ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta.

10 Kiết Sử: 7. Biên kiến

Biên kiến tức là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai trái lớn số 1 là:

1. Thường kiến: Tức thị chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi: Người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn chết trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ nhận định rằng tu cũng vậy, không tu cũng vậy. Nên không sợ tội ác, không thích làm thiện. Lối chấp này, đọa Phật gọi là “Thường kiến ngoại đạo”.

2. Ðoạn kiến: Tức thị chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người chấp Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; Tội cũng không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: “Tu nhơn tích đức lọc lõi cũng chết; Hung hăng, bạo ngược tắt thở cũng không còn”.

Xem Thêm : Bộ lạc là gì? Đặc điểm của bộ lạc? Đặc trưng mới của nó?

Có người đối trước những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tơ duyên trắc trở..Tưởng rằng chết là hết khổ cực, là giải thoát tất cả, nên họ đang không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vẫn chưa hết! Lối chấp này, kinh Phật gọi là “Ðoạn kiến ngoại đạo”.

10 Kiết Sử: 8. Kiến thủ

Kiến thủ tức là chấp chặt sự hiểu biết sai trái của mình. Kiến thủ có hai phương diện:

1. Kiến thủ vì không ý thức được sai trái của mình. Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai trái. Nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ cổ hủ hành vi, ý kiến của mình; Tự cho là giỏi, ai nói cũng chẳng nghe.

2. Kiến thủ vì tự ái hay vì cứng đầu. Biết mình làm như vậy là sai, nói như vậy là dở. Nhưng vì tự ái, cứ cổ hủ cái sai cái dở của mình, không chịu thay đổi. Như ông bà trước đã lỡ theo tà giáo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như vậy mãi không chịu đổi. Họ cứ nói một cách liều lĩnh: “Xưa sao nay vậy”, hay “Xưa bày này làm”. Hoặc như là cha mẹ trước đã lỡ làm nghề tội lỗi, đến đời con cháu, vẫn tiếp tục cổ hủ nghề ấy không chịu thay nghề khác.

Nói rộng ra trong thế giới, nhiều người mặc dù thời thế đã cải đổi, tiến bộ mà người ta cứ vẫn giữ lại những thói quen, cổ tục hủ bại mãi. Ví dụ như ở Việt Nam ta, đến thời điểm hiện tại mà vẫn có những Phật tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến; Khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to tướng, trình diễn qua các đường phố; Mọi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì đốt giấy tiền vàng bạc, y phục. Mỗi năm phải họp hành để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v…Chấp chặt những hủ tục như vậy, đều thuộc và “Kiến thủ” cả.

10 Kiết Sử: 9. Giới cấm thủ

Giới cấm thủ tức là tuân theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, mọi rợ; Không làm thế nào đưa người ta tới sự việc giải thoát được, vậy mà vẫn có nhiều người tin và tuân theo.

Ví dụ như ở Ấn Độ, có phái ngoại đạo lấy đá điểm tâm, đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ dơ; Leo lên rất cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông tự vẫn để được phước. Có đạo, mỗi năm lại bắt tín đồ giết một người để tế thần, hoặc như là đạo của chàng trai Vô Não: Phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm chuỗi hạt mới đắc đạo. Những thứ cuồn tín như vậy, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau thêm.

10 Kiết Sử: Tà kiến

Tà kiến tức là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự thực, trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến tức là mê tín dị đoan dị đoan. Như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, táo quân; Xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v… Nói rộng ra, cả bốn món chấp trên, đều thuộc vào Tà kiến cả.

(10 Kiết Sử là gì – Theo Phật Học Phổ Thông)

Tuệ Tâm 2021.

You May Also Like

About the Author: v1000