Chữ Nôm là gì? Sự khác nhau giữa chữ Hán và chữ Nôm

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Chu nom la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Chữ Nôm (字喃), còn gọi là Quốc âm (chữ Hán: 國音), là một hệ chữ ngữ tố từng được dùng làm viết tiếng Việt, gồm các từ Hán-Việt và các từ vựng khác. Nó gồm có bộ chữ Hán tiêu chuẩn và các chữ khác được tạo ra dựa theo quy tắc.

Bạn Đang Xem: Chữ Nôm là gì? Sự khác nhau giữa chữ Hán và chữ Nôm

Chữ Nôm là gì? Khái niệm

Cả hai từ “Chữ” và “Nôm” trong chữ Nôm đều là từ Hán Việt cổ. Từ chữ bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của chữ “tự” 字 (có tức là chữ).

Từ “Nôm” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán trung thế kỉ của chữ “nam” 南 (có tức là phía nam). Ý của tên gọi chữ Nôm là đây là thứ chữ dùng làm ghi chép tiếng nói của người phương Nam (tức người Việt, xưa kia người Việt tự xem mình là người phương Nam, còn người Trung Quốc là người phương Bắc).

Tên gọi chữ Nôm khi viết bằng chữ Nôm có thể viết bằng rất vô số phương pháp khác nhau:

字喃,(⿰字宁)喃,(⿰字守)喃,喃,茡喃,芓喃,(⿰字文)喃,喃,佇喃,宁喃 字諵,(⿰字宁)諵(⿰字守)諵,諵,茡諵,芓諵,(⿰字文)諵,諵,佇諵,宁諵

nhat trung thuong dam Chữ Nôm là gì? Sự khác nhau giữa chữ Hán và chữ Nôm
Một trang từ cuốn Nhật dụng thường đàm chữ Nôm 1851.

Vậy còn Chữ Nho là gì?

Danh từ chữ Nho được dùng làm chỉ chữ Hán do người Việt dùng trong các văn bản ở Việt Nam.

Các ý kiến về sự xuất hiện của chữ Hán Nôm

Cách kết cấu chữ Nôm có thể đã manh nha ló dạng từ trong năm đầu khi người Hán chinh phục đất Giao Chỉ (Miền Bắc Việt Nam) và đặt nền đô hộ trên các bộ lạc người Việt vào đầu Công Nguyên.

Vì tiếng nói khác biệt, những “chữ Nôm” trước nhất xuất hiện vì nhu cầu ghi địa danh, tên người hoặc những khái niệm không có trong Hán văn. Song chứng cứ còn lưu lại vô cùng ít ỏi, khó kiểm chứng được một cách chuẩn xác.

Phạm Huy Hổ trong “Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào?” thì nhận định rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vương. Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn San lại nhận định rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỷ thứ hai.

Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ “bố cái” trong danh xưng “Bố Cái đại vương” do nhân dân Việt Nam tôn vinh Phùng Hưng mà nhận định rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ thứ 8.

Ý kiến khác lại dựa vào chữ “cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt” (大瞿越) để nhận định rằng chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng.

Trong một số nghiên cứu vào thập niên 1990, các học giả địa thế căn cứ vào đặc điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử vẻ vang tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh so sánh khối hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán Việt đã đi tới tóm lại rằng âm Hán Việt (âm của người Việt đọc chữ Hán) ngày này bắt nguồn từ thời nhà Đường-nhà Tống thế kỷ 8-9.

Và nếu âm Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời trước lúc khăng khăng cách đọc Hán Việt (nếu xét chữ Nôm với tư cách khối hệ thống văn tự) và chỉ có thể ra đời sau khoảng chừng thế kỷ thứ 10 khi người Việt thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc với thắng lợi của Ngô Quyền vào năm 938.

Về văn bản thì khi tìm chứng tích trước thời nhà Lý, văn tịch hoàn toàn không lưu lại dấu vết chữ Nôm nào cả. Sang thời Lý thì mới có thể có một số chữ Nôm như trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (tạc năm 1173 niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 11) hay bia chùa Tháp Miếu, huyện Yên Lãng (nay thuộc Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (tạc năm 1210 triều vua Lý Cao Tông).

Trước tác thì phải sang thời nhà Trần mới có vết tích rõ ràng. Hàn Thuyên là người dân có công lớn phát triển thơ Nôm thời kỳ này với việc mở đầu thể Hàn luật.

Sự ra đời và Phát triển của chữ Hán Nôm

Ban sơ khi mới xuất hiện, chữ Nôm thuần túy mượn dạng chữ Hán y nguyên để thu thanh tiếng Việt cổ (mượn âm để chép tiếng Quốc âm). Phép đó gọi là chữ “giả tá”.

Từ từ phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được sử dụng ngày càng nhiều và có khối hệ thống hơn.

Phép này gọi là “hài thanh” để kết cấu chữ mới. Tính từ lúc thời Lê về sau số lượng sáng tác bằng chữ Nôm tăng dần trong suốt 500 năm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Dồi dào nhất là các áng thi văn có tính cách cảm hứng, tiêu khiển, và nặng phần tình cảm.

Những tác phẩm Nôm này rất đa dạng: từ Hàn luật (thơ Nôm (tiếng Việt) theo luật Đường), đến văn tế, truyện thơ lục bát, song thất lục bát, phú, hát nói, tuồng, chèo.

Thi ca chữ Nôm đã diễn tả đầy đủ mọi tình cảm của dân tộc bản địa Việt, khi thì hào hùng, khi bi ai; khi thì trang nghiêm, khi bỡn cợt.

Chữ Hán Nôm Trước thế kỷ 15

Một số di tích lịch sử còn lưu lại dấu vết chữ Nôm trước thế kỷ 15 nhưng số lượng không nhiều ngoài vài văn bia.

Tuy nhiên có thuyết nhận định rằng một tác phẩm quan trọng là tập Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, dịch Nôm là Phật nói cả trả ơn áng ná cực nặng đã ra đời vào thời nhà Lý khoảng chừng thế kỷ 12. Này cũng là đặc điểm vì tập này là văn xuôi, một thể văn ít khi sử dụng chữ Nôm.

Nhà Trần cũng để lại một số tác phẩm chữ Nôm như mấy bài phú của vua Trần Nhân Tông: “Cư trần lạc đạo phú” (居塵樂道賦) và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” (得趣林泉成道歌).[9][10]

Chữ Hán Nôm Thế kỷ 15 -17

Thời kỳ này phần lớn thi văn lưu truyền biết tới nay là thơ Hàn luật bát cú hoặc tứ tuyệt.

Một số là trước tác cảm hứng riêng như:

  • Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi)
  • Hồng Đức quốc âm thi tập (Lê Thánh Tông)
  • Bạch Vân am thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
  • Ngự đề hoà danh bách vịnh (Chúa Trịnh Căn)
  • Tứ thời khúc vịnh (Hoàng Sĩ Khải)
  • Ngọa long cương (Đào Duy Từ)

nhưng cũng không thiếu những tác phẩm theo mô hình sử ký như: Thiên Nam Minh giám, Thiên Nam ngữ lục.

Thơ lục bát cũng xuất hiện với tác phẩm “Cảm tác” của Nguyễn Hy Quang đãng, được sáng tác năm 1674.

Thế kỷ 17 cũng tận mắt chứng kiến sự xuất hiện nhưng đã sớm nở rộ của văn học Nôm Đạo gia tô, với những tác giả tên tuổi như nhà truyền giáo Girolamo Maiorica (chủ trì soạn hơn 45 tác phẩm nhiều thể loại), thầy giảng Gioan Thanh Minh (viết tiểu truyện các danh nhân và thánh nhân), thầy giảng Lữ-y Đoan (viết Sấm truyền ca, truyện thơ lục bát phỏng tác từ Ngũ Thư).

Chữ Hán Nôm Thế kỷ 18 – 19

Thơ Hàn luật của những thế kỷ kế tiếp càng uyển chuyển, lối dùng chữ càng tài tình, hóm hỉnh như thơ của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan.

Trái lại thể thơ dài như Ai tư vãn của Ngọc Hân Công chúa cùng thể song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm lưu danh những nữ sĩ đặc tài thời trước.

Riêng Chinh phụ ngâm được xem là một tuyệt tác, có phần trội hơn nguyên bản chữ Nho.

Thể song thất lục bát cũng lưu lại tác phẩm Cung oán ngâm khúc, lời văn cầu kỳ, hoa mỹ nhưng thể thơ phổ quát nhất là truyện thơ lục bát, trong đó phải kể Truyện Kiều (Nguyễn Du) và Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu).

Văn từ truyện thơ bình dị hơn nhưng lối hành văn và ý tứ không kém thâm thúy và khéo léo.

Những tác phẩm truyện Nôm khuyết danh khác ví như:

  • Thạch Sanh
  • Trê Cóc
  • Nhị độ mai
  • Phan Trần
  • Tấm Cám
  • Lưu Bình Dương Lễ
  • Ngư tiều vấn đáp y thuật
  • Nữ tú tài
  • Tô Công phụng sứ

Xem Thêm : Tự doanh chứng khoán là gì? 5 điều cần biết để tự doanh chứng khoán

tất cả được phổ quát rộng rãi khiến không mấy người Việt lại không biết vài câu, nhất là Truyện Kiều.

Dưới triều đại nhà Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của Quang đãng Trung nhà vua, toàn bộ các văn kiện hành chính cần phải viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802.

Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi ca theo thể hát nói như của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương v.v.

Những thể cũ song thất lục bát và lục bát (các truyện Nôm) vẫn góp mặt song thêm vào đó là những vở tuồng hoặc chèo dân gian cũng được soạn bằng chữ Nôm như Kim Thạch kỳ duyên, Chàng Lía (Văn Doan diễn ca), Quan Âm Thị Kính.

Đối trái lại tài liệu văn học thì triết học, sử học, pháp luật, y khoa và ngữ học tuy giành được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng tương đối ít. Văn vần thì có Đại Nam quốc sử diễn ca (thời Nguyễn).

Nhất là cuốn từ vị song ngữ Hán Nôm Đại Nam Quốc ngữ do Văn Đa Nguyễn Văn San soạn năm Tự Đức thứ 30 (1877).Song sử liệu, nhất là chính sử cùng các văn bản hành chính của triều đình thì nhất thể đều bằng chữ Hán.

Ngoại lệ là trong năm tồn tại ngắn ngủi của nhà Hồ (thế kỷ 15) và nhà Tây Sơn (thế kỷ 18).

Những văn bản hành chính như sổ sách, công văn, sách vở và giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ thỉnh thoảng xen chữ Nôm nếu không thể tìm được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt.

Sự Suy giảm của chữ Hán Nôm

Dưới tổ chức chính quyền thuộc địa và bảo lãnh của Pháp, vào thời điểm cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ và thời điểm đầu thế kỷ 20 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vị thế của chữ Hán và chữ Nôm mở màn sút giảm.

Kỳ thi Hương cuối cùng tại Nam Kỳ được tổ chức vào năm 1864, tại Bắc Kỳ là năm 1915, tại Trung Kỳ là năm 1918 và kỳ thi Hội sau rốt được tổ chức vào năm 1919.

Trong chừng mực nào đó, chữ Hán vẫn tiếp tục được dạy trong thời Pháp thuộc. Học chính Tổng quy (Règlement général de l’Instruction publique) do Toàn quyền Albert Sarraut cho ra đời năm 1917 quy định ở cấp tiểu học, mỗi tuần dạy Hán tự một giờ rưỡi và dạy tiếng Pháp (lớp nhì và lớp nhất) ít nhất 12 giờ.

Ở cấp trung học, mỗi tuần quốc văn (gồm Hán tự và Quốc ngữ) dạy 3 giờ trong lúc Pháp văn và lịch sử vẻ vang Pháp dạy 12 giờ.

Bên cạnh bộ Quốc-văn giáo-khoa thư của nhóm Trần Trọng Kim, Nha Học chính Đông Pháp còn tổ chức và cho sử dụng bộ Hán-văn tân giáo-khoa thư xuất bản lần thời điểm đầu năm 1928 do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi soạn, đều được sử dụng rộng rãi cho tới trước năm 1949.

Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dừng việc dạy chữ Hán trong nhà trường Tính từ lúc năm 1950. Còn tại miền Nam, giáo dục-đào tạo Việt Nam Cộng hòa quy định dạy chữ Hán cho học trò trung học đệ nhất cấp….? Sau tái thống nhất, Khóa học giáo dục phổ thông của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không giảng dạy chữ Hán.

Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ

Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ là hai hệ chữ dùng làm viết tiếng Việt, chúng có vai trò khác nhau trong dòng lịch sử vẻ vang và văn hóa truyền thống.

Chữ Quốc ngữ được những nhà truyền giáo Dòng Tên tại Việt Nam sáng chế dựa trên ký tự Latinh vào nửa thời điểm đầu thế kỷ 17 và suốt một thời kì dài tới thời điểm cuối thế kỷ 19 chỉ được lưu hành trong giới Đạo gia tô.

Tuy nhiên, trái với nhiều người lầm tưởng, trong thời kỳ này, lượng văn thư Kitô giáo chữ Nôm vượt xa chữ Quốc ngữ, và sách chữ Nôm vẫn được người Đạo gia tô sử dụng cho tới thời điểm giữa thế kỷ 20.

Thời Pháp thuộc, tổ chức chính quyền thuộc địa muốn tăng cường ảnh hưởng tác động của tiếng Pháp và hạn chế ảnh hưởng tác động của Hán học cùng với chữ Hán. Sự sút giảm của chữ Hán cũng dẫn tới sự việc suy giảm của chữ Nôm.

Về văn tự thay thế để viết tiếng Việt, họ cùng bất đắc dĩ phải chấp thuận đồng ý sự hiện hữu của chữ Quốc ngữ do các nhà truyền giáo Tình nhân Đào Nha chế tạo.

Bất chấp việc tổ chức chính quyền Pháp cổ súy chữ Quốc ngữ cho mục tiêu của họ, các sĩ phu vận động ủng hộ chữ Quốc ngữ trong công cuộc phổ quát tân học và Viral tư tưởng yêu nước.

Các trào lưu cải cách như Hội Trí Tri, trào lưu Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo mạng mới hình thành đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ.

Ngày này, tiếng Việt hầu như được viết hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, trong lúc đó chỉ rất ít người, chủ yếu là các học giả, có thể đọc viết được chữ Nôm.

Một số người nhận định rằng chữ Quốc ngữ đã làm lu mờ vị thế của chữ Nôm nhưng một số khác thì nhấn mạnh vấn đề rằng về mặt kỹ thuật, hai hệ chữ này sẽ không loại trừ nhau, tức là, người ta vẫn có thể biết chữ Quốc ngữ song song học chữ Nôm vì điều này không người nào nghiêm cấm cả.

Những cách tạo chữ Nôm

Mượn cả âm và nghĩa của chữ Hán

Mượn cả âm đọc (âm Hán Việt) và nghĩa của chữ Hán để ghi lại các từ từ Hán Việt. Âm Hán Việt có ba loại là:

  • Âm Hán Việt tiêu chuẩn: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời Đường. Ví dụ: “ông” 翁, “bà” 婆, “tiện lợi” 順利, “công thành danh toại” 功成名遂.
  • Âm Hán Việt cổ: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường. Ví dụ: “mùa” 務 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là”vụ”), “bay” 飛 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phi”), “buồng” 房 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phòng”).
  • Âm Hán Việt Việt hoá: là các âm gốc Hán bị chuyển đổi cách đọc do ảnh hưởng tác động của quy luật ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ: “thêm” 添 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “thiêm”), “nhà” 家 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “gia”), “khăn” 巾 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “cân”), “ghế” 几 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “kỉ”).

Ba loại âm Hán Việt kể trên đều được sử dụng trong chữ Nôm.

Mượn âm chữ Hán, không mượn nghĩa

Mượn chữ Hán đồng âm hoặc cận âm để thu thanh tiếng Việt. Âm mượn có thể là âm Hán Việt tiêu chuẩn, âm Hán Việt cổ hoặc âm Hán Việt Việt hoá. Khi đọc có thể đọc giống với âm mượn hoặc đọc chệch đi.

Ví dụ: Đọc giống như âm Hán Việt tiêu chuẩn:

  • chữ “một” 沒 có tức là “chìm” được mượn dùng làm ghi từ “một” trong “một mình”,
  • chữ “tốt” 卒 có tức là “lính tráng” được mượn dùng làm ghi từ “tốt” trong “tốt xấu”,
  • chữ “xương” 昌 có tức là “hưng thịnh” được mượn dùng làm ghi từ “xương” trong “xương thịt”,
  • chữ “qua” 戈 là tên gọi gọi của một loại binh khí được mượn dùng làm ghi từ “qua” trong “hôm qua”.

Đọc chệch âm Hán Việt tiêu chuẩn:

  • “gió” 這 (mượn âm “giá”),
  • “cửa” 舉 (mượn âm “cử”),
  • “đêm” 店 (mượn âm “điếm”),
  • “chạy” 豸 (mượn âm “trãi”).

Đọc giống như âm Hán Việt cổ:

  • chữ “keo” 膠 (“keo” trong “keo dán”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “giao”) được dùng làm ghi lại từ “keo” trong “keo kiệt”,
  • chữ “búa” 斧 (“búa” trong “cái búa”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phủ”) được dùng làm ghi lại từ “búa” trong “chợ búa” (“búa” trong “chợ búa” là âm Hán Việt cổ của chữ “phố” 鋪).

Mượn nghĩa chữ Hán, không mượn âm

Mượn chữ Hán đồng nghĩa hoặc cận nghĩa để ghi lại âm tiếng Việt.

Ví dụ:

  • chữ “dịch” 腋 có nghĩa tức là “nách” được dùng làm ghi lại từ “nách” trong “hôi nách”,
  • chữ “năng” 能 có tức là “có tài, có năng lực” được dùng làm ghi lại từ “hay” trong “văn hay chữ tốt”.

Tạo chữ ghép Chữ ghép, còn gọi chữ là chữ hợp thể, là chữ được tạo ra bằng phương pháp ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ.

Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù (phòng ban biểu thị âm đọc của chữ ghép) hoặc nghĩa phù (phòng ban biểu thị ý nghĩa của chữ ghép) hoặc vừa là thành phù vừa là nghĩa phù hoặc dùng làm phù hiệu chỉnh âm chỉ báo cho tất cả những người đọc biết chữ này phải đọc chệch đi.

Chúng có thể được viết nguyên dạng hoặc bị viết tỉnh lược mất một phần hoặc thay bằng chữ giản hóa. Thanh phù luôn có âm đọc giống hoặc gần giống với âm đọc của chữ ghép.

Phù hiệu chỉnh âm được sử dụng trong chữ Nôm là bộ “khẩu” 口 (để tại bên trái chữ ghép), dấu “cá” 亇 (bắt nguồn từ chữ “cá” 个 viết theo thể thảo thư, để tại bên phải chữ ghép), dấu nháy “?” (để tại bên phải chữ ghép), bộ “tư” 厶 (để tại phía bên trên hoặc bên phải chữ ghép), dấu “冫” (đặt bên trái chữ ghép, chỉ thấy dùng trong các bản văn bản Nôm ở vùng Nam Bộ Việt Nam).

Xem Thêm : Digi credit cho vay tiền online

→ Xem thêm bài: 7 Cách học chữ Hán dễ Nhớ nhất

→ Một số ví dụ về chữ ghép:

  • “chân” 蹎 (“chân” trong “chân tay”): chữ này được cấu thành từ chữ “túc” 足 và chữ “chân” 真. “Túc” 足 có tức là “chân” được sử dụng làm “nghĩa phù” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép.

Trong chữ ghép chữ “túc” 足 khi đứng ở bên trái phải viết dưới dạng biến thể gọi là “bàng chữ túc” ⻊. Chữ “chân” 真 (“chân” trong “thực tâm”) đồng âm với “chân” trong “chân tay” được sử dụng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép.

  • “gạch” ? (“gạch” trong “gạch ngói”): chữ này được cấu thành từ chữ “thạch” 石 và chữ “ngạch” 額. “Thạch” 石 có tức là “đá” được sử dụng làm nghĩa phù, ý là gạch thì được làm bằng đất đá. “Ngạch” 額 dùng làm thanh phù.
  • “khói” : chữ này được cấu thành từ chữ “hỏa” 火 và chữ “khối” 塊 bị tỉnh lược một phần (tỉnh lược bộ “thổ” 土 ở bên trái chữ “khối” 塊). “Hỏa” 火 có tức là lửa, gợi ý nghĩa của chữ ghép (lửa cháy tạo ra khói), “khối” 塊 gợi âm đọc của chữ ghép.
  • “ra” : chữ này được cấu thành từ chữ “la” 羅 giản hóa và chữ “xuất” 出. “Xuất” 出 có tức là “ra” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép.
  • “trời” : chữ này được cấu thành từ chữ “thiên” 天 có tức là “trời” và chữ “thượng” 上 có tức là “trên”, ý là “trời” thì nằm ở trên cao.
  • “lử” : (“lử” trong “mệt lử”) gồm chữ “vô” 無 có tức là “không có” và chữ “lực” 力 có tức là “sức, sức lực”, ý là “lử” là không còn sức lực gì nữa.

Tiếng Việt văn minh không có phụ âm kép nhưng trong tiếng Việt từ thời đoạn trung đại trở về trước thì lại sở hữu phụ âm kép. Trong chữ Nôm hợp thể để biểu thị các phụ âm kép người ta dùng một hoặc hai chữ làm thanh phù. Nếu dùng hai chữ làm thanh phù thì một chữ sẽ dùng làm biểu thị phụ âm thứ nhất của phụ âm kép, chữ còn sót lại biểu thị phụ âm thứ hai của phụ âm kép. Ví dụ:

– “blăng” : “Blăng” nay đã chuyển đổi thành “trăng, giăng”. Chữ “blăng” ? được cấu thành từ chữ “ba” 巴, chữ “lăng” 夌 và chữ “nguyệt” 月. “Ba” 巴 biểu thị phụ âm thứ nhất “b” của phụ âm kép “bl”, “lăng” 夌 biểu thị phụ âm thứ hai “l” và phần vần của từ “blăng”, “nguyệt” 月 có tức là “mặt trăng” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép này.

– “mlời” : “Mlời” nay đã chuyển đổi thành “lời, nhời” (“lời” trong “lời nói”). Chữ “mlời” ? được cấu thành từ chữ “ma” 麻 (bị tỉnh lược thành “亠”) và chữ “lệ” 例. “Ma” 麻 biểu thị phụ âm thứ nhất

– “m” của phụ âm kép “ml”, “lệ” 例 biểu thị phụ âm thứ hai “l” và phần vần cửa từ “mlời”.

– “tlòn” : “Tlòn” nay đã chuyển đổi thành “tròn”. Chữ này được cấu thành từ chữ “viên” 圓 (bị tỉnh lược bộ “vi” 囗 ở phía ngoài thành “員”) và chữ “lôn” 侖. “Viên” 圓 có tức là “tròn” được sử dụng làm nghĩa phù. “Lôn” 侖 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai “l” của phụ âm kép “tl” và phần vần của từ “tlòn”.

– “krông” 滝: “Krông” nay đã chuyển đổi thành “sông”. Chữ này được cấu thành từ bộ “thủy” 水 và chữ “long” 竜. “Thủy” có tức là “sông” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. “Long” 竜 biểu thị phụ âm thứ hai “r” của phụ âm kép “kr” và phần vần của từ “krông”.

– “sláu” : “sláu” nay đã chuyển đổi thành “sáu”. Chữ này được cấu thành từ chữ “lão” và chữ “lục”. “Lục” 六 là nghĩa phù, có tức là “sáu”. “Lão” 老 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai “l” của phụ âm kép “sl” và phần vần của từ “sláu”.

Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc chệch đi Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để gợi ý cho tất cả những người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi.

Ví dụ:

– chữ “ấy” : lược nét chấm “丶” trên đầu chữ “ý” 衣. Việc lược bớt nét bút này gợi ý cho tất cả những người đọc biết rằng chữ này sẽ không đọc là “y” hay “ý” (chữ 衣 có hai âm đọc là “y” và “ý”) mà cần đọc chệch đi.– “khệnh khạng” : chữ “khệnh ? là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khạng” ? là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét mác “㇔”.– “khề khà”: chữ “khề” ? là chữ “kỳ” bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khà” ? là chữ “kỳ” bị lược bớt nét mác “㇔”.

Mượn âm của chữ Nôm có sẵn

Dùng chữ Nôm có sẵn để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa nhưng khác âm với chữ được mượn. Khi đọc có thể đọc giống với âm đọc của chữ được mượn hoặc đọc chệch đi.

Ví dụ:

  • Đọc giống với âm đọc của chữ được mượn: chữ “chín” ? (“chín” trong “chín người mười ý”) được dùng làm ghi từ “chín” trong “nấu chín”.
  • Đọc chệch âm: chữ “đá” ? (“đá” trong “hòn đá”) được dùng làm ghi từ “đứa” trong “đứa bé”.

Nhược điểm của chữ Hán Nôm

Nhìn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán (do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại) nên khó học, khó nhớ hơn hết chữ Hán vốn đã và đang khó nhớ.

Để đọc viết được chữ Nôm yên cầu phải có vốn hiểu biết chữ Hán nhất định. Hệ chữ Nôm cũng không có sự thống nhất: có thể có nhiều chữ dùng làm ghi cùng một âm tiết, hoặc trái lại, một chữ có thể có vô số phương pháp đọc khác nhau.

Tình trạng này còn do “tam sao thất bản”, phần vì trình độ người thợ khắc chữ thời trước, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng sản phẩm không đảm bảo (chữ bị nhòe, mất nét). Do đó có người nói “chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán”, “nôm na là cha mách nước qué”.

Về mặt ngữ học thì do âm trong tiếng Việt nhiều hơn số âm trong tiếng Hán (tiếng Việt có 4500 đến 4800 âm; tiếng Hán Quan thoại có tầm khoảng 1280 âm) nên người viết phải dùng dấu nháy [»] hoặc chữ khẩu [口] đặt cạnh một chữ để biểu thị những chữ cận âm.

Người đọc vì vậy phải giỏi mà đoán cho trúng âm, khiến chữ Nôm rất khó đọc.

Chữ Nôm của tương đối nhiều dân tộc bản địa khác

Ở Việt Nam, không chỉ có dân tộc bản địa Kinh chế tạo ra chữ Nôm, một vài dân tộc bản địa thiểu số khác ví như Tày, Dao, Ngạn,… cũng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để lưu lại tiếng nói của họ.[19]

Chữ Nôm Tày Chữ Nôm Dao Chữ Nôm Ngạn Người Ngạn, một nhóm người dân ở tỉnh Cao Bằng tự nhận thuộc dân tộc bản địa Tày nhưng về mặt tiếng nói thì gần với những người Giáy, từng sử dụng chữ Nôm Ngạn trộn với chữ Hán trong các bài mo (khấn cúng).

“Chữ nôm” của tương đối nhiều nước khác

Do 喃 nôm = 口 khẩu + 南 nam nên chữ “喃 nôm” trong tên gọi “chữ Nôm” thường được hiểu với ý tức là “tiếng nói của người Nam”.

Tuy nhiên, nếu mở rộng khái niệm “chữ nôm” ra cho tất cả những hệ chữ được sáng tạo dựa trên chữ Hán thì có người còn gọi những chữ được những dân tộc bản địa phương bắc như Nhật Bản, Triều Tiên là “chữ nôm Nhật”, “chữ nôm Triều”, hay gọi những khối hệ thống chữ của tương đối nhiều dân tộc bản địa thuộc Trung Quốc như Tráng, Đồng, v.v. là “chữ nôm Choang”, “chữ nôm Đồng”, v.v.

Kokuji (国字 Quốc tự) trong khối hệ thống Kanji của người Nhật cũng được tạo thành từ chữ Hán để ghi lại những từ và khái niệm riêng trong tiếng Nhật.

Ví dụ: 畑 hatake = 火 hoả + 田 điền, tức là cánh đồng khô, để phân biệt với 田 là ruộng trồng lúa nước; 鮭 sake = 魚 ngư + 圭 khuê, tức là cá hồi Nhật Bản; 瓩 kiloguramu = 瓦 ngoã + 千 thiên, tức là kílô-gam.

Trong khối hệ thống Kanji văn minh, cũng luôn có nhiều chữ không có trong các tự điển Trung Quốc nhưng không phải là Kokuji vì đó chỉ là cách đơn giản hoá những chữ Hán đã có sẵn theo phong cách của người Nhật.

Ví dụ:

円 là giản thể của 圓 viên; 売 là giản thể của 賣 mại.

Tương tự như Kokuji của người Nhật, người Triều Tiên cũng dùng chữ Hán để tạo thành một số chữ biểu ý riêng trong khối hệ thống Hanja của họ. Ví dụ: 畓 dap = 水 thuỷ + 田 điền, tức là ruộng nước, để phân biệt với 田 là đồng khô; 巭 bu = 功 công + 夫 phu, tức là người lao động. Chữ Choang vuông Sawndip của người Tráng ở cực nam Trung Quốc được phát triển dựa trên chữ Hán và thường được so sánh với chữ Nôm của dân tộc bản địa Kinh ở Việt Nam do có nhiều điểm tương đồng giữa hai khối hệ thống chữ viết này.

Tuy nhiên, ngoài những cách tạo chữ tương tự với cách tạo chữ Nôm là giả tá, hình-thanh và hội ý, còn tồn tại những chữ vuông Choang được tạo ra bởi những cách sơ khai hơn là tượng hình và chỉ sự Tuy nhiên, cũng nên phân biệt những “chữ nôm” này với những bộ chữ biểu âm như Kana và Hangul trong tiếng Nhật và tiếng Hàn văn minh.

Các phần mềm viết chữ Hán Nôm

Có nhiều phần mềm máy tính tạo ra ký tự chữ Nôm bằng phương pháp gõ chữ Quốc ngữ.

HanNomIME là phần mềm chạy trên Windows tương trợ cả chữ Hán và chữ nôm.Vietnamese Keyboard Set tương trợ gõ chữ Nôm và chữ Hán trên Mac OS X.WinVNKey là bộ gõ đa tiếng nói trên Windows tương trợ gõ chữ Hán và chữ Nôm bằng âm Quốc ngữ.Weasel Hannom là bộ gõ của Ủy ban phục sinh Hán Nôm được xây dựng trên cơ sở bộ gõ Weasel. Phông chữ Nôm nằm trong cơ sở tài liệu Unihan. VietUnicode là phông Unicode chứa các ký tự chữ Nôm. Nó là một dự án trên SourceForge. Phông TrueType có thể tải về từ.

Một số từ vị chữ Nôm trên mạng Internet có Từ vựng ở Viện Việt học (tiếng Việt) Nom character index (Tiếng Anh).

Trích nguồn: vi.wikipedia.org

→ Xem rõ ràng và cụ thể về Khóa học viết chữ Hán Nôm và Thư pháp tại đây

You May Also Like

About the Author: v1000