Chánh Định Trong Phật Giáo

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Chanh dinh la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Chánh Định là một trong tám chánh của dãy phố giác ngộ Bát Chánh Đạo. Nội dung bài viết sau đây do thầy Thích Nguyên Tuệ san sẻ có thể giúp một phần nào đó để quý Phật tử nắm rõ hơn về Chánh Định Với Hai Loại Chú Tâm. Nhưng trước tiên, tất cả chúng ta hãy xem qua khái niệm về Định nhé!

Bạn Đang Xem: Chánh Định Trong Phật Giáo

Định là gì?

Định là một trạng thái thuộc phạm trù tâm, phát sinh do sự CHÚ TÂM LIÊN TỤC trên các đối tượng người tiêu dùng đang sanh diệt. Có hai loại Định là Tà Định và Chánh Định. Để phân biệt hai loại Định này còn có thể phân biệt bằng các loại chú tâm.

Đó là hai loại chú tâm:

  • CHÚ TÂM CÓ TẦM CÓ TỨ: Chú Tâm Có Tầm Có Tứ là sự việc chú tâm được bố trí theo hướng đến đối tượng người tiêu dùng (tầm theo tiếng Hoa là phía đến) và có duy trì sự chú tâm trên đối tượng người tiêu dùng đó. Đây là sự việc chú tâm có sự hướng đến đối tượng người tiêu dùng và duy trì sự chú tâm trên đối tượng người tiêu dùng.
  • CHÚ TÂM KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ: Chú Tâm Không Tầm Không Tứ là sự việc chú tâm không hướng đến bất kỳ một đối tượng người tiêu dùng nào và cũng không duy trì sự chú tâm trên bất kỳ đối tượng người tiêu dùng nào. Đây là sự việc chú tâm TỰ ĐỘNG XẢY RA từ đối tượng người tiêu dùng sinh diệt này sang đối tượng người tiêu dùng sinh diệt khác.

Thế nào là tà định?

Tà Định là trạng thái Định phát sinh do chỉ có một loại chú tâm duy nhất là Chú tâm có Tầm có Tứ. Đa phần các trường phái tu thiền chủ trương thực hiện duy nhất loại chú tâm này, vì chú tâm có tầm có tứ phù phù hợp với ý kiến buộc tâm vào một trong những đối tượng người tiêu dùng duy nhất, để đạt được nhất tâm trên một cảnh, để tâm không phóng dật.

Ví như tu Định với biến xứ đất, họ lấy một miếng đất dạt ra và ngồi ngắm miếng đất đó để hình ảnh, sắc tố này được lưu giữ vào bộ nhớ. Tiếp đến họ nhắm mắt nhắm mũi lại để tưởng nhớ ra hình ảnh miếng đất vừa nhìn và chú tâm vào hình ảnh vừa “tưởng ra” đó.

Cứ lặp đi tái diễn cách đó suốt ngày đêm, cho tới lúc cái hình ảnh được “tưởng ra” đó vững chắc, không mất đi nữa và tâm an trú vững chắc trên hình ảnh đó thì đạt được trạng thái định.

Trạng thái định xẩy ra này do chú tâm liên tục vào đối tượng người tiêu dùng được “tưởng ra” và sự chú tâm đó là chú tâm Có Tầm Có Tứ, tức là chú tâm được bố trí theo hướng đến đối tượng người tiêu dùng và duy trì sự chú tâm trên đối tượng người tiêu dùng được tưởng ra.

Tuy nhiên đây là chú tâm liên tục từ đối tượng người tiêu dùng này sang đối tượng người tiêu dùng khác chứ không phải là một đối tượng người tiêu dùng duy nhất như hiểu nhầm hiện nay.

Vì rằng chú tâm có tầm có tứ này là chú tâm được bố trí theo hướng đến và có duy trì sự chú tâm trên “một” đối tượng người tiêu dùng được “tưởng ra” nhưng bản thân đối tượng người tiêu dùng được “tưởng ra” đó đang sinh diệt rất nhanh chóng (thay đổi nhanh chóng) chứ không phải là một đối tượng người tiêu dùng nhất thiết duy nhất (hãy thử nhắm mắt nhắm mũi lại và chú tâm quan sát tỉ mỷ các hình ảnh xuất hiện trước mặt, là đối tượng người tiêu dùng được “tưởng ra” thì sẽ thấy ngay các đối tượng người tiêu dùng đó đang sinh diệt rất nhanh chóng).

Nhắm mắt nhắm mũi lại và đặt tâm nơi điểm xúc chạm giữa môi trên và hơi thở rồi chú tâm vào đó để quan sát hơi thở vào ra cũng là chú tâm có tầm có tứ trên đối tượng người tiêu dùng được “tưởng ra”, cũng y như thể biến xứ đất, nước, lửa, gió…

Vì đa phần các trường phái tu Định đều đã Mặc Định là phải buộc tâm vào một trong những cảnh, nhất tâm trên một cảnh, tâm chỉ an trú trên một đối tượng người tiêu dùng duy nhất nên họ chỉ nghe biết duy nhất một loại chú tâm có tầm có tứ, họ không thể biết, không thể chấp thuận loại chú tâm không tầm không tứ, không chấp thuận sự tồn tại của Định không tầm không tứ.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh có tường thuật lại cuộc đối đáp giữa cư sĩ Cita với những người đứng đầu giáo phái Ni kiền tử (Kỳ na giáo) và ngoại đạo này đã nói về Đức Phật và Định không tầm không tứ như sau:

“Sa môn Gotama là hư ngụy, là dối trá. Sa môn Gotama chủ trượng định không tầm không tứ thì có khác gì chủ trương dùng lưới để buộc gió lại giữa hư vô, thật là điều không tưởng”.

Thế nào là chánh định?

Chánh Định là trạng thái Định mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng, với bốn mức độ định khác nhau là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền.

Xem Thêm : Tìm hiểu về Apache Spark

Kinh điển đã ghi nhận đặc tính của bốn trạng thái định đó như sau:

“Ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với chú tâm có tầm có tứ. Diệt chú tâm có tầm có tứ chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh với chú tâm không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

Ly hỷ trú xã, thân cảm lạc thọ mà bậc thánh gọi là xã niệm lạc trú, chánh niệm tỉnh giác, chứng và trú tam thiền. Xã lạc xã khổ, diệt trừ hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú tứ thiền, tâm thanh tịnh nhờ xã”.

Bốn mức độ Định này là sự việc phát triển tuần tự từ Sơ thiền lên Nhị thiền, lên Tam thiền rồi lên Tứ thiền chứ không phải là đạt được nó một cách độc lập với nhau. Trong bốn tầng định này thì Sơ thiền là Định có tầm có tứ và Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền là Định không tầm không tứ.

Trong Định không tầm không tứ chỉ có một loại chú tâm không tầm không tứ, không còn chú tâm có tầm có tứ nữa bởi vì muốn chuyển từ Sơ thiền sang Nhị thiền thì phải diệt chú tâm có tầm có tứ và sót lại duy nhất chú tâm không tầm không tứ.

Cụ thể này cũng chỉ rõ là ở Sơ thiền phải gồm có hai loại chú tâm có tầm có tứ lẫn không tầm không tứ còn các tầng thiền lơn hơn thì chỉ có chú tâm không tầm không tứ. Vậy thì Chánh Định mà Đức Phật đã chứng ngộ có đặc trưng là loại chú tâm không tầm không tứ mà ngoại đạo không thể nào hiểu nổi, không thể nào chấp thuận.

Và sự tồn tại loại chú tâm không tầm không tứ đã KHẲNG ĐỊNH LÀ TRONG CHÁNH ĐỊNH CÓ SỰ CHÚ TÂM LIÊN TIẾP TỪ ĐỐI TƯỢNG SINH DIỆT NÀY SANG ĐỐI TƯỢNG SINH DIỆT KHÁC CHỨ KHÔNG PHẢI CHÚ TÂM VÀO MỘT ĐỐI TƯỢNG DUY NHẤT như ý kiến các trường phái Phật giáo hiện nay.

Chánh Định không chú tâm vào một trong những đối tượng người tiêu dùng duy nhất, không có mục tiêu buộc tâm vào một trong những đối tượng người tiêu dùng duy nhất để nhất tâm trên một cảnh, để tâm không phóng dật vì không hề có một chiếc tâm nào nhất thiết cũng không hề có một đối tượng người tiêu dùng nào nhất thiết để mà buộc nó lại với nhau như vậy, do tâm và các đối tượng người tiêu dùng đều đang sinh diệt.

Vậy thì Chánh Định là sự việc chú tâm liên tục từ đối tượng người tiêu dùng sinh diệt này sang đối tượng người tiêu dùng sinh diệt khác, mục tiêu này là để làm gì?

Phải hiểu rằng tâm không phải là một cấu trúc nguyên khối và đi chuyển từ đối tượng người tiêu dùng này sang đối tượng người tiêu dùng khác mà là một lộ trình sinh diệt của nhiều Danh pháp khác nhau do duyên Căn Trần xúc tiếp mà phát sinh, trong đó có hai loại tâm biết:

  • Tâm biết trực tiếp giác quan (trực quan) có phận sự GHI NHẬN ĐỐI TƯỢNG
  • Tâm biết gián tiếp Ý thức có phận sự xác định đối tượng người tiêu dùng vừa mới được ghi nhận là cái gì, tính chất ra sao (Tâm lý học văn minh gọi tâm biết trực tiếp là Nhận thức cảm tính đối tượng người tiêu dùng và tâm biết Ý thức là Nhận thức lý tính đối tượng người tiêu dùng).

Tương tự như một Camera liên lạc có phận sự ghi nhận hình ảnh của phương tiện nhưng Camera không biết đối tượng người tiêu dùng được ghi nhận là cái gì (tương tự như nhãn thức thấy, nghĩ thức nghe, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức cảm nhận đối tượng người tiêu dùng nhưng không biết đối tượng người tiêu dùng đó là cái gì)

Tiếp đến là hình ảnh mà Camera ghi nhận sẽ tiến hành máy tính xử lý và Tóm lại, biết đó là xe tải hay xe con, trọng tải bao nhiêu, chủ xe là ai, đi đúng làn đường hay là không…Biết về đối tượng người tiêu dùng như vậy là vì máy tính mà phát sinh, tương tự như tâm biết Ý thức, biết về đối tượng người tiêu dùng được ghi nhận là cái gì, tính chất ra sao.

Khi đối chiếu với Phàm phu thì tâm biết trực tiếp thấy, nghe, cảm nhận đối tượng người tiêu dùng chỉ ghi nhận đối tượng người tiêu dùng, đối tượng người tiêu dùng ra làm sao thì ghi nhận như vậy đó, nên nó là như thực tại mức độ cảm tính, còn tâm biết Ý thức là hiểu biết sai lạc, gọi là vô minh nên sẽ phát sinh thái xanh độ tham sân si, phát sinh phiền não.

Hãy theo dõi để biết rõ mục tiêu chú tâm liên tục từ đối tượng người tiêu dùng sinh diệt này sang đối tượng người tiêu dùng sinh diệt khác trong hai cách tu CHỈ và QUÁN.

Tu Chỉ

TU CHỈ là lúc thực hiện Chánh Niệm về Thân. Chánh Niệm về Thân cụ thể là: Nhớ đến chú tâm theo dõi (quán sát) các đối tượng người tiêu dùng (cảm giác) nơi thân.

Xem Thêm : Po (Purchase order) là gì? Những thông tin cần biết về Po

Ví như khi tọa thiền trước tiên là xiết nhẹ hai hàm răng lại và đầu lưỡi chạm vào hàm răng trước làm phát sinh cảm giác nổi trội nơi răng lưỡi và nếu Trí tưởng Chánh (Chánh Niệm “Nhớ đến chú tâm theo dõi các cảm giác nơi thân” khởi lên liên tục thì Nhớ Nghĩ về thế gian (Niệm và Tư duy thế tục) không khởi lên thì sự chú tâm theo dõi sẽ TỰ ĐỘNG khởi lên, khởi nguồn từ cảm giác nơi răng lưỡi tiếp đến cảm giác thở vô, tiếp đến cảm giác thở ra.

Hết cảm giác thở ra lại tiếp đến cảm giác nơi răng lưỡi rồi lại tiếp đến cảm giác thở vô…và cứ tiếp tục xẩy ra theo một vòng có ba cảm giác nổi trội là Cảm giác răng lưỡi, Cảm giác thở vô, Cảm giác thở ra.

Quá trình chú tâm theo dõi sẽ tự nhiên dần và sẽ quan sát được thêm nhiều cảm giác trên thân xen kẽ với ba cảm giác nổi trội trên như cảm giác chuyển động, cảm giác nơi chân, nơi ngực, nơi bụng…Do có sự chú tâm liên tục từ đối tượng người tiêu dùng này sang đối tượng người tiêu dùng khác nên lúc đó chỉ có tâm biết Thân thức Ghi nhận những cảm giác trên thân mà tâm biết Ý thức không khởi lên (cảm nhận tâm vắng lặng, không suy nghĩ, không tư tưởng nào khởi lên), tức là lộ trình tâm DỪNG LẠI TÂM BIẾT TRỰC TIẾP (CHỈ) và lúc này gọi tâm biết trực tiếp đó là TĨNH GIÁC.

Nhờ lộ trình tâm tạm dừng và chỉ có tâm biết trực tiếp mà tâm biết Ý thức vô minh không khởi lên nên không tìm hiểu, không sở hữu và nhận xét, không thẩm định đối tượng người tiêu dùng, và vì vậy sẽ không còn phát sinh thái xanh độ thích hay ghét (Tham hay Sân) với đối tượng người tiêu dùng.

Do không có thái độ tham sân với đối tượng người tiêu dùng nên không Dính mắc với đối tượng người tiêu dùng và do không dính mắc mà sẽ không còn có Phiền não với đối tượng người tiêu dùng. Đây đó là giải thoát và giải thoát này do tu Chỉ như vậy mà có nên gọi là Tâm Giải Thoát.

Khi tọa thiền nhờ chú tâm theo dõi liên tục từ đối tượng người tiêu dùng này đến đối tượng người tiêu dùng khác trên thân nên không những Thân thức Ghi nhận những đối tượng người tiêu dùng (cảm giác xúc chạm) nơi thân mà Nhĩ thức vẫn Ghi nhận đối tượng người tiêu dùng (cảm giác âm thanh) và Tưởng thức Ghi nhân đối tượng người tiêu dùng (cảm giác pháp trần) nhưng Ý thức không khởi lên nên vẫn an trú Tâm Giải Thoát.

Tương tự như vậy, khi thiền hành nếu trong 20 phút mà Chánh Niệm, nhớ đến chú tâm theo dõi các cảm giác nơi thân khởi lên liên tục không gián đoạn, không Nhớ Nghĩ bất kỳ một chuyện gì khác thì trong thời kì đó không bị phân tâm (nhất tâm), lúc đó chú tâm theo dõi tự động hóa khởi lên.

Lúc đó chỉ có Thân thức Ghi nhận cảm giác chân trái, chân phải chạm đất, cảm giác chuyển động của vai, cổ, cảm giác nơi bụng…( với chú tâm không tầm không tứ) nhưng Nhãn thức vẫn Ghi nhận cảm giác hình ảnh lối đi với chú tâm có tầm có tứ và Nhĩ thức vẫn Ghi nhận những Cảm giác âm thanh nổi trội.

Trong 20 phút đó chỉ có Thân thức ghi nhân Cảm giác trên thân, Nhãn thức ghi nhận Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức ghi nhận Cảm giác âm thanh mà Ý thức không khởi lên (nội tâm vắng lặng), nên không tìm hiểu, nhận xét, thẩm định đối tượng người tiêu dùng.

Lúc đó an trú tâm biết Tĩnh giác và an trú Tâm Giải Thoát và đó là Thấy chỉ là thấy, Nghe chỉ là nghe, Cảm nhận chỉ là cảm nhận không thêm bớt, không bị cái biết Ý thức Tà kiến vô minh bóp méo đối tượng người tiêu dùng.

Tu Quán

Tu Quán là lúc thực hiện Chánh Niệm về Tâm, về Pháp với mục tiêu đoạn diệt tâm biết Ý thức Tà kiến vô minh của Phàm phu bằng phương pháp thay thế bởi tâm biết Ý thức Chánh Kiến của bậc Thánh. Sẽ có được rất nhiều đề mục khi quán tâm, quán pháp ví dụ như đề mục quán sinh diệt ( vô thường ).

Đó là thực hiện Chánh Niệm “Nhớ đến chú tâm quán sát để biết đối tượng người tiêu dùng đó vô thường, sinh diệt”. Trong tư thế tọa thiền có thể hướng đến những Cảm giác trên thân và khi đối chiếu với các Cảm giác nổi trội thì sau khoản thời gian chú tâm và Thân thức ghi nhận rõ ràng Cảm giác đó thì Ý thức Chánh Kiến khởi lên, biết trực tiếp Cảm giác đó đang sinh diệt (vô thường) rồi khi Cảm giác đó diệt thì một Cảm giác nổi trội khác lại xuất hiện thì sự chú tâm lại xẩy ra và Thân thức ghi nhận rõ ràng đối tượng người tiêu dùng, tiếp đến Ý thức Chánh Kiến xác nhận đối tượng người tiêu dùng đó đang sinh diệt.

Và sự chú tâm lại xẩy ra liên tục từ đối tượng người tiêu dùng này đến đối tượng người tiêu dùng khác và nhờ vậy Ý thức Chánh Kiến khởi lên, biết trực tiếp, biết đúng sự thực thật mọi Cảm giác trên thân đều đang sinh diệt…Chính Ý thức Chánh Kiến, biết trực tiếp các đối tượng người tiêu dùng đang sanh diệt sẽ xoá bỏ cái biết vô minh, thường kiến đã cấu hình thiết lập từ vô thủy của Phàm phu.

Không có thể trình bày đầy đủ về mục tiêu và diễn biến của việc Tu Quán này trong một nội dung bài viết ngắn mà phải tham gia một khoá tu 10 ngày mới được chỉ dẩn và phân tích đầy đủ trong phần Niệm Tâm và Niệm Pháp và mới có thể nắm rõ quan hệ giữa Chánh Niệm – Chánh Định – Chánh Kiến ( Niệm – Định – Tuệ ) và Tuệ Giải Thoát trong lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế là ra làm sao.

Nguồn: Đại Đức Thích Nguyên Tuệ

You May Also Like

About the Author: v1000