Cấu thành tội phạm là gì? Yếu tố cấu thành, ý nghĩa của cấu thành tội phạm?

Chúng tôi rất vui mừng chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Cau thanh toi pham la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa và chiến lược hiệu quả. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi để cập nhật kiến thức mới.

Hiện nay, có rất nhiều người nhầm lẫn tội phạm với cấu thành tội phạm. Việc tìm nắm rõ cấu thành tội phạm ý nghĩa lớn trong định tội cho tội phạm xẩy ra và để phân biệt các loại tội phạm với nhau. Để sở hữu thể truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội thì nghiên cứu tội phạm thôi chưa đủ mà phải nghiên cứu cả cấu thành. Vì vậy muốn định tội chuẩn xác phải nắm vững cấu thành tội phạm. Sau đây là bài phân tích về các khái niệm, yếu tố cấu thành tội phạm và ý nghĩa của nó.

Bạn Đang Xem: Cấu thành tội phạm là gì? Yếu tố cấu thành, ý nghĩa của cấu thành tội phạm?

Trạng sư tư vấn pháp luật về cấu thành tội phạm trực tuyến: 1900.6568

1. Cấu thành tội phạm là gì?

Tội phạm theo như quy định của Bộ luật hình sự hiện hành có giảng giải đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người dân có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương nghiệp thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ và được quy định trong Bộ luật hình sự. Những hành vi có tín hiệu tội phạm nhưng mức độ ảnh hưởng tác động xã hội không đáng kể thì không được xem là tội phạm.

Cấu thành tội phạm là tổng thể các tín hiệu pháp lý đặc trưng (khách quan và chủ quan) được quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là địa thế căn cứ vào các tín hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị xem là tội phạm.

Đặc điểm cơ bản của cấu thành tội phạm đó là:

+ Cấu thành tội phạm phải có những tín hiệu pháp lý khách quan và chủ quan có tính chất bắt buộc; các tín hiệu này phải phản ánh đúng thực chất của tội phạm để sở hữu thể phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Ngoài các dấu hiêu bắt buộc thì cấu thành tội phạm còn tồn tại tín hiệu riêng để phản ánh thực chất riêng của tội phạm cụ thể.

+ Các tín hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.

+ Phải tổng hợp đầy đủ các tín hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm mới khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm.

Cấu thành tội phạm tiếng Anh là: Constitute a crime

2. Các yếu tố cấu thành tội phạm:

2.1. Về mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra ngoài thế giới khách quan, gồm có hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và quan hệ giữa hành vi với hậu quả, phương tiện, phương tiện, phương pháp, thời khắc, …. thực hiện tội phạm. Cụ thể những tín hiệu của mặt khách quan của tội phạm được thể hiện như sau:

+ Về hành vi khách quan

Tín hiệu nên cần phải có ở tất cả tội phạm đó là hành vi khách quan, tức phải có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nếu một người thực hiện hành vi không khiến nguy hiểm cho xã hội, không thực hiện hành vi gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ thì không thể xem là tội phạm. Hành vi nguy hiểm này được thể hiện bằng việc thực hiện hay là không thực hiện hành động thuộc các trường hợp cấm của luật. Người thực hiện hành vi biết hoặc có nghĩa vụ phải ghi nhận việc mình làm hay là không thực hiện hành động mà từ đó gây nên nguy hiểm cho xã hội thì sẽ sở hữu hành vi khách quan để cấu thành tội phạm.

Hành vi hành động là việc chủ thể thực hiện một việc mà quy định hình sự cấm. Hồ hết các tội phạm trong Bộ luật Hình sự được thực hiện bằng hành vi hành động.

Hành vi không hành động là việc chủ thể trong những khi có đủ xét tuyển để thực hiện một việc nhưng cố ý không làm. Để truy cứu trách nhiệm với những người thực hiện hành vi không hành động phải xét tới các yếu tố, xét tuyển để thực hiện nghĩa vụ hay thực hiện hành vi thuộc trình độ nghiệp vụ của mình nhưng người đó cố ý không làm. Ví dụ như: trốn thuế, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản quốc gia, thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn,…

+ Về hậu quả

Hậu quả thực tế xẩy ra là thiệt hại về vật chất và thiệt hại ý thức. Thiệt hại vật chất gồm có những thiệt hại đo đếm được về lượng, xác định được về mức độ như tỷ lệ tổn thương thân thể, tài sản bị mất, hư hỏng, suy giảm, chết người, …Thiệt hại ý thức là những thiệt hại không xác định được về chất, về lượng, về mức độ như xâm phạm đến danh dự, phẩm giá (ví dụ như tội vu oan giáng họa, tội làm nhục người khác), tư tưởng của Đảng, chính sách (ví dụ như tội phá hoại chính sách kết đoàn, tội phá hoại việc thực hiện các chính sách tài chính – xã hội,…), …. Hậu quả có ý nghĩa quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Hậu quả tác hại càng lớn thì mức độ nguy hiểm của tội phạm càng cao.

+ Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm

Hành vi khách quan phải là nguyên nhân làm phát sinh, gây ra kết quả đó là hậu quả của tội phạm. Dựa vào quan hệ giữa hành vi và hậu quả có ý nghĩa xác định thời đoạn hoàn thành của tội phạm. Tội có cấu thành hình thức được xem là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (ví như tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm,…). Còn tội có cấu thành vật chất được xem là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra hậu quả thực tế (ví như tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho tất cả những người khác,…)

Xem Thêm : Mác bê tông 300 là gì

ĐK của quan hệ nhân quả giữa hành vi của tội phạm dựa vào: hành vi vi phạm phải xẩy ra trước thời khắc phát sinh hậu quả, trong hành vi phải chứa đựng khả năng thực tế, nguyên nhân trực tiếp phát sinh hậu quả, một hậu quả xẩy ra có thể do một hoặc nhiều hành vi gây ra.

+ Về thời kì, địa điểm

Vấn đề nên cần phải chứng minh trong tất cả vụ án hình sự đó là tội phạm phải tồn tại ở thời kì và địa điểm nhất định. Trong một số trường hợp thì tín hiệu về thời kì, địa điểm là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm. Ví dụ như: tội buôn lậu phải có địa điểm thực hiện là qua biên giới hay tội giết người trong những khi thi hành công vụ phải được thực hiện trong thời kì hiện hành công vụ,…

+ Về phương tiện, phương tiện, phương pháp thực hiện tội phạm

Các tín hiệu về phương tiện, phương tiện, phương pháp là những tín hiệu của mặt khách quan. Các tín hiệu này sẽ không phải là tín hiệu bắt buộc, có thể có hoặc không để định tội. Nếu trong một số tội phạm quy định tín hiệu này là tình tiết định sườn thì cơ quan, người tiến hành tố tụng phải chứng minh được để định danh tội phạm. Ví dụ như Tội đua xe trái phép thì phải chứng minh có xe xe hơi, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ là phương tiện thực hiện hành vi.

2.2. Về mặt chủ quan của tội phạm:

Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của tội phạm. Đó là những tín hiệu về mặt tâm lý, tư tưởng của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội gồm có các tín hiệu lỗi, động cơ, mục tiêu của tội phạm.

Các tín hiệu này cụ thể được thể hiện như sau:

+ Về tín hiệu lỗi

Lỗi là thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi khi đối chiếu với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó của mình gây ra, đây là tín hiệu nên cần phải có ở mọi tội phạm. Lỗi gồm có lỗi cố ý (cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp) và lỗi vô ý (vô ý vì quá tự tín, vô ý vì cẩu thả).

  • Lỗi cố ý trực tiếp

Lỗi cố ý trực tiếp là việc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi này mà vẫn mong muốn nó xẩy ra. Từ khái niệm này, lỗi có ý trực tiếp được thể hiện rõ ràng ở hai điểm: thứ nhất, người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi, hậu quả thế tất xẩy ra hoặc có thể xẩy ra; thứ hai, người phạm tội mong muốn hậu quả xẩy ra.

Trong cấu thành tội phạm của phần lớn các tội phạm trong Bộ luật hình sự được quy định bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp. So với một số tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức (hậu quả thực tế rất khó được xác định) thì hãy xác định rõ ràng mức độ hình dung về hậu quả để xác định tội phạm (ví dụ như tội vu oan giáng họa, tội làm nhục người khác,..).

  • Lỗi cố ý gián tiếp

Lỗi cố ý gián tiếp là việc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra tuy không mong muốn hậu quả xẩy ra nhưng cố ý (có ý thức được hành vi) để mặc cho nó xẩy ra. Từ khái niệm rút ra được hai đặc trưng cơ bản về lỗi cố ý gián tiếp đó là: thứ nhất, người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi, hậu quả thế tất xẩy ra hoặc có thể xẩy ra; thứ hai, người phạm tội không mong muốn hậu quả xẩy ra nhưng bỏ mặc, đồng ý hậu quả xẩy ra.

  • Lỗi vô ý vì quá tự tín

Lỗi vô ý vì quá tự tín là việc người phạm tội có khả năng nhận diện được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng lại nhận định rằng hậu quả này sẽ không xẩy ra hoặc nhận định rằng mình có thể ngăn ngừa được hậu quả. Từ khái niệm trên lỗi vô ý quá tự tín thể hiện: thứ nhất, người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả có thể xẩy ra; thứ hai, người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xẩy ra.

Do phải có hậu quả thực tế diễn ra nên hồ hết các tội thực hiện với lỗi vô ý là các tội có cấu thành tội phạm vật chất.

  • Lỗi vô ý vì cẩu thả

Lỗi vô ý vì cẩu thả là việc người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặc dù pháp luật quy định cho tất cả những người này phải ghi nhận và đủ xét tuyển để biết về hành vi gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Tín hiệu biểu hiện của lỗi vô ý do cẩu thả là: thứ nhất, người phạm tội có xét tuyển thấy trước hành vi có thể gây ra hậu quả và hậu quả thực tế có thể xẩy ra; thứ hai, người phạm tội không có khả năng điều khiển và tinh chỉnh được hành vi của mình, tức thực hiện hành vi không có ý chí.

Đặc biệt quan trọng, ngoài bốn mô hình thức lỗi trên cần lưu ý đến yếu tố sự kiện bất thần:

Trong trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cần phải phân biệt được lỗi vô ý do cẩu thả và sự kiện bất thần để định tội vì một trường hợp phải truy cứu trách nhiệm hình sự còn một trường hợp thì không. Người thực hiện hành vi có lỗi vô ý vì cẩu thả do người đó chủ quan nên không thấy trước được hậu quả trong xét tuyển phải ghi nhận dẫn đến trường hợp này bị xem là tội phạm và chịu trách nhiệm hình sự. Còn người thực hiện hành vi do sự kiện bất thần gây ra do nguyên nhân khách quan, không có xét tuyển phải ghi nhận và dẫn đến hậu quả thực tế xẩy ra, trong trường hợp này sẽ không bị xem là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự.

+ Về động cơ, mục tiêu

Động cơ là động lực bên trong xúc tiến con người thực hiện hành vi biểu hiện ra phía ngoài. Mục tiêu là kết quả trong ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi. Do vậy người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội có thể có động cơ phạm tội hoặc mục tiêu phạm tội, vì những tội có lỗi vô ý thì thường không có động cơ, mục tiêu rõ ràng trực tiếp khi đối chiếu với hành vi nguy hiểm cho xã hội biểu hiện ra phía ngoài và khi đối chiếu với hậu quả mình gây ra.

2.3. Về chủ thể của tội phạm:

Chủ thể tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 gồm có hai đối tượng người tiêu dùng: thành viên và pháp nhân thương nghiệp.

Xem Thêm : Ngăn xếp Stack là gì? Cấu trúc và cơ chế hoạt động ra sao?

+ Member là chủ thể tội phạm phải là người đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Về độ tuổi:

Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ một số trường hợp luật có quy định khác. Ví dụ như nhóm tội hối lộ, tham nhũng thì chủ thể đủ tuổi nhưng cần phải có chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi vi phạm.

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt quan trọng nghiêm trọng thuộc một trong các tội phạm quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 như sau: Tội giết người (Điều 123), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134), Tội hiếp dâm (Điều 141), Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm (Điều 143), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội mua bán người (Điều 150), Tội mua bán người dưới 16 người (Điều 151), tội cướp tài sản (Điều 168), Tội bắt cóc nhằm cướp đoạt tài sản (Điều 169), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), Tội cướp giật tài sản (Điều 171), Tội trộm cắp tài sản (Điều 173), Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178), Tội sinh sản trái phép chất ma túy (Điều 248), Tội tích trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250), Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251), Tội cướp đoạt chất ma túy (Điều 252), Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 265), Tội đua xe trái phép (Điều 266), Tội phát tán lớp học tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286), Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287), Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (Điều 289), Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi cướp đoạt tài sản (Điều 290), Tội khủng bố (Điều 299), Tội phá hủy Dự Án BĐS, cơ sở, phương tiện quan trọng về an toàn quốc gia (Điều 303), Tội chế tạo, tích trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc cướp đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự chiến lược (Điều 304).

Về năng lực trách nhiệm hình sự:

Trong quy định của pháp luật hình sự dùng cụm từ “tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” và được giảng giải đó là trong lúc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì người đó bị mắc bệnh thần kinh hoặc các bệnh khác mà mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển và tinh chỉnh hành vi của mình. Chỉ loại trừ trường hợp trên, chủ thể được xem là có năng lực trách nhiệm hình sự.

+ Pháp nhân thương nghiệp (gồm có: doanh nghiệp và các tổ chức tài chính khác) là chủ thể của tội phạm khi:

Thứ nhất, có tư cách pháp nhân

Pháp nhân thương nghiệp phải là tổ chức và được xem là có tư cách pháp nhân khi: được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp hoặc các văn bản pháp luật khác có liên quan; có tổ chức cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với thành viên, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh chính mình tham gia quan hệ pháp luật.

Thứ hai, đủ xét tuyển chịu trách nhiệm hình sự theo quy định Bộ luật hình sự

Pháp nhân thương nghiệp chỉ chịu trách nhiệm khi có đủ tất cả xét tuyển sau: thực hiện hành vi phạm tội nhân danh pháp nhân thương nghiệp; thực hiện hành vi phạm tội vì lợi ích của pháp nhân thương nghiệp; thực hiện hành vi phạm tội do có sự lãnh đạo, điều hành hay đồng ý của pháp nhân thương nghiệp và còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.

Như vậy pháp nhân thương nghiệp là chủ thể của tội phạm khi có năng lực trách nhiệm hình sự sau lúc được cơ quan quốc gia có thẩm quyền xác nhận tư cách pháp nhân và hoạt động với mục tiêu đấy là tìm kiếm lợi nhuận cho những thành viên.

Việc pháp nhân thương nghiệp chịu trách nhiệm hình sự thì không đương nhiên được loại trừ trách nhiệm của thành viên thực hiện hành vi vi phạm.

2.4. Về khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, bị tội phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc rình rập đe dọa gây thiệt hại.

Những quan hệ được Bộ luật hình sự 2015 ghi nhận mà khi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm xâm phạm thì sẽ sở hữu thể cấu thành tội phạm, đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, cơ chế chính trị, cơ chế tài chính, nền văn hóa truyền thống, quốc phòng, an toàn, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, những vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật hình sự phải bị xử lý hình sự.

3. Ý nghĩa của cấu thành tội phạm:

Từ việc phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm ta thấy được ý nghĩa của nó như:

+ Cấu thành tội phạm là một trong những xét tuyển quan trọng nhất để định tội danh chuẩn xác. Nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào không có đầy đủ các tín hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự thì không thể đề ra vấn đề định tội danh.

+ Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý cần và đủ để truy cứu trách nhiệm người phạm tội. Những cơ quan tư pháp hình sự khi có đầy đủ cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Việc xác định đã có tội phạm được thực hiện chỉ có ý nghĩa khi hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thể có đầy đủ các tín hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng.

+ Cấu thành tội phạm là địa thế căn cứ để người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn đúng loại và mức hình phạt khi đối chiếu với người thực hiện hành vi phạm tội.

+ Cấu thành tội phạm là yếu tố để đảm bảo cho những quyền con người và tự do của công dân trong nghành tư pháp hình sự song song tương trợ việc tuân thủ pháp luật và củng cố trật tự pháp luật trong quốc gia pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay.

You May Also Like

About the Author: v1000