Khác lạ các từ ngữ dùng để ‘bảo trâu’

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Bo trau la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Hồi nhỏ khi được đọc bài ca dao: Trâu ơi ta bảo trâu này / Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta… người viết cảm thấy con trâu gần gụi quá, và bài ca dao quả là một cứ liệu tiêu biểu cho quan niệm “con trâu là bạn nông gia”.

Bạn Đang Xem: Khác lạ các từ ngữ dùng để ‘bảo trâu’

Nhưng sau này còn có dịp tìm hiểu, thấy có vẻ cái cách nói chuyện giữa người với trâu như vậy chỉ có ở… ca dao. Trong thực tế đời sống, người nông dân Việt Nam nói chuyện với con trâu có khác.

Riệt, vắt, họ, hò, tắc, rị, tá, dí…

Xét trong thực tế đôi bên thao tác làm việc (chủ yếu quanh chuyện cày ruộng, kéo xe) giữa người với trâu (và bò, gọi tắt chung là trâu), có thể thấy cái việc “ta bảo trâu này” của người nông dân bất quá cũng chỉ thuộc về 3 trạng thái rẽ trái, rẽ phải, hoặc tạm dừng, vậy thôi. Nhưng tùy theo mỗi vùng miền, người nông dân dùng các từ ngữ để “bảo trâu” khác nhau.

Theo tìm hiểu, ở khu vực các tỉnh phía Bắc, muốn trâu bò rẽ trái thì người cày hô “riệt”, đến chỗ cần rẽ phải thì hô “vắt”, và muốn trâu tạm dừng phải hô “họ”. Ba “thuật ngữ” này còn có sự chênh lệch trong phát âm giữa một số nơi, có chỗ hô thành “vặt”, “diệt”, con trâu vẫn hiểu được đó là từ chỉ trái, phải; có nơi kêu “hò” thay cho “họ” thì con trâu vẫn tạm dừng.

Xem Thêm : Outdoor là gì? Những hoạt động thế nào gọi là Outdoor?

Vào khu vực Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ từ xứ Nghệ đến xứ Huế, người ta lại “bảo trâu” là “tắc”, “rị”/”rì” nếu muốn rẽ phải hoặc trái; và để yêu cầu trâu tạm dừng vẫn hô lên: “họ”/”hò”.

Đến vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ thì cách “bảo trâu” lại khác: từ TP. Đà Nẵng vào đến Bình Thuận người cày ruộng dùng các từ “tá”, “dí” để gọi trâu đi sang trái hoặc phải, và vẫn gọi “họ”/”hò” để trâu tạm dừng.

Vào đến miền Tây Nam Bộ thì cách gọi có biến âm chút ít, theo lão nông Sáu Hỷ – quê ở An Giang nay lập nghiệp ở Đồng Tháp, thì quê ông cày ruộng hô trâu bò bằng ba từ “dí”, “phá”, “dò” để yêu cầu đi sang phải, trái và tạm dừng.

Như vậy từ “tá” ở Nam Trung Bộ khi vô Tây Nam Bộ biến âm thành “phá”. Ngoài ra, một số vùng cũng dùng “thá” thay cho “tá”, kiểu âm gọi na ná như vậy dĩ nhiên là con trâu nghe tốt, không sao.

Và nguồn gốc?

Điều quan trọng hơn là: những lời nói / tiếng nói dùng để làm bảo trâu ấy xuất phát từ đâu, thuộc cộng đồng tiếng nói nào? Hay nói cách khác, ngoài dùng để làm “bảo trâu” như đã thấy, có cộng đồng tiếng nói nào thì cũng dùng các từ như trên để chỉ các khái niệm: trái, phải, tạm dừng trong đời sống hằng ngày?

Xem Thêm : “Isekai” là gì mà thu hút sự chú ý khắp thế giới và tác động mạnh mẽ đến giới trẻ?

Xem trong từ vựng của Hội Khai Trí Tiến Đức soạn năm 1954, thấy có ghi nhận 2 từ: vặt, riệt; nhưng chỉ chú thích là: Riệt: tiếng kêu của người thợ cày bảo trâu đi thẳng; Vặt: tiếng của thợ cày khiến trâu bò đi quay ngang.

Rõ ràng những người dân soạn từ vựng đã ghi nhận một hiện tượng kỳ lạ tiếng nói đang tồn tại thật, nhưng có phần sơ sài: không ghi rõ vặt là “quay ngang” theo phía nào, trái hay phải; còn riệt mà giảng tức là đi thẳng e cũng chưa hẳn đúng.

Còn nói về lớp từ Việt cổ thì khái niệm phải, trái từng được người Việt gọi là nam, chiêu (hoặc đăm, chiêu), cũng không thấy dùng để làm gọi trâu. Tra tìm trong các từ vựng từ cổ hiện nay không thấy ghi nhận những từ “bảo trâu” trên đây với những nghĩa mà ngày này trâu vẫn còn hiểu.

Hiện nay, trong lớp từ Hoa Việt cũng không thấy xuất hiện các từ ngữ dùng để làm “bảo trâu” như nói ở trên (theo tiếng Tiều thì trái = chọa, phải = diểu, tạm dừng = hẹc; còn tiếng Quảng Đông thì trái = chỏ, phải = dàu, tạm dừng = thìng). Xét rộng ra đến cộng đồng tiếng Khmer thì qua trái = “tâu chvêng”, qua phải = “tâu chđăm”, tạm dừng = “bành chop”, cũng rất khác với cách “bảo trâu” trên kia.

Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu người Chăm, cụm từ tá, dí, họ/hò hiện đang rất được người Chăm dùng trong điều khiển và tinh chỉnh trâu bò cày ruộng và cả kéo xe.

Các nhà nghiên cứu Chăm đoán định có thể các từ này thuộc tiếng nói Chăm cổ (vì tiếng Chăm văn minh diễn đạt các động tác rẽ trái, rẽ phải, tạm dừng cũng bằng các từ khác).

Dù sao, đó cũng là gợi ý về nguồn gốc các thuật ngữ “bảo trâu” có xuất xứ ở khu vực Trung Trung Bộ trở vô Nam. Còn các phương pháp gọi khác ở vùng miền khác đành chờ giới chuyên ngành tiếng nói đưa ra lý giải vậy.

You May Also Like

About the Author: v1000