Truyền thông xã hội và các giải pháp quản lý, phát triển

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Truyen thong xa hoi la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa và chiến lược hiệu quả. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi để cập nhật kiến thức mới.

1. Khái niệm truyền thông xã hội

Bạn Đang Xem: Truyền thông xã hội và các giải pháp quản lý, phát triển

Khái niệm truyền thông xã hội (social tiếp thị quảng cáo) ra đời từ một vài thập kỷ trước với sự xuất hiện của mạng internet và mạng lưới hệ thống tin nhắn BBS (Bulletin Board System)(1). Tuy nhiên cho tới khi nền tảng Web 2.0 ra đời – công nghệ giúp người dùng tự xây dựng nội dung và kết nối với nhau thì kỷ nguyên của truyền thông xã hội mới thực sự phát triển nhanh. Khái niệm truyền thông xã hội hiện nay được hiểu là các nền tảng (platform) cung cấp cho tất cả những người sử dụng internet dựa trên công nghệ web 2.0.

Các tác giả Andreas Kaplan và Michael Haenlein trong nội dung bài viết trên Tập san Business horizons đã khái niệm truyền thông xã hội là “những ứng dụng internet xây dựng trên nền tảng công nghệ và lý tưởng của web 2.0 mà tạo tham dự cho việc kiến tạo và trao đổi thông tin của người dùng”(2).

Theo khái niệm chính thức của Bộ Thông Tin và Truyền thông, truyền thông xã hội là “mạng lưới hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, san sớt và trao đổi thông tin với nhau, gồm có dịch vụ tạo trang thông tin điện tử thành viên, forum (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, san sớt âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác”(3).

Như vậy, truyền thông xã hội là các công nghệ thông qua mạng internet trên các thiết bị truy cập internet mà tương tác tạo tham dự cho việc tạo và san sớt thông tin, ý tưởng và các hình thức thể hiện khác thông qua các cộng đồng trên mạng internet. Truyền thông xã hội có một số tính năng như:

(1) Truyền thông xã hội là các ứng dụng dựa trên internet tương tác.

(2) Nội dung do người dùng tạo ra, ví dụ như bài đăng hoặc nhận xét văn bản, ảnh, video thông qua tất cả những tương tác trực tuyến, là huyết quản của phương tiện truyền thông xã hội.

(3) Người dùng tạo hồ sơ mà website hoặc ứng dụng được thiết kế và duy trì bởi tổ chức truyền thông xã hội.

Truyền thông xã hội tạo tham dự cho việc phát triển của tương đối nhiều social trực tuyến bằng phương pháp kết nối hồ sơ của người dùng với những thành viên hoặc nhóm khác trên cơ sở tương tác với nhau.

Người dùng thường truy cập các dịch vụ truyền thông xã hội thông qua các công nghệ dựa trên web trên máy tính (để bàn hoặc xách tay) hoặc các ứng dụng trên điện thoại cảm ứng thông minh và Tablet. Khi người dùng tham gia vào các dịch vụ điện tử này, họ kết nối với nhau trên các nền tảng tương tác cao, thông thông qua đó các thành viên, cộng đồng và tổ chức có thể san sớt, đồng sáng tạo, thảo luận và sửa đổi nội dung do người dùng tạo hoặc nội dung được tạo trước được đăng trực tuyến.

Phương tiện truyền thông xã hội khác với phương tiện truyền thông trên giấy (ví dụ: tập san và báo mạng) và phương tiện điện tử truyền thống như phát sóng truyền hình… theo nhiều phương pháp, gồm có chất lượng sản phẩm, phạm vi, tần suất, tính tương tác, khả năng sử dụng, tính trực tiếp và hiệu suất. Các phương tiện truyền thông xã hội hoạt động trong một mạng lưới hệ thống truyền hội thoại (nhiều nguồn tới nhiều đích). Điều này trái ngược với phương tiện truyền thông truyền thống hoạt động theo mô hình truyền tải logic đơn (một nguồn tới nhiều đích), ví như một tờ báo được gửi đến nhiều thuê bao hoặc đài phát thanh phát cùng một lớp học cho toàn thành phố. Một số website truyền thông xã hội phổ thông nhất với trên 100 triệu người dùng đã đăng ký như: Facebook (và Facebook Messenger liên kết của nó), Youtube, WhatApp, Skype, Qzone, WeChat, Instagram, Twitter, Flickr, Google Plus, Go.vn, Baidu Tieba…

Giữa truyền thông xã hội (social tiếp thị quảng cáo) và social (social network) có một tẹo khác nhau trong nội hàm khái niệm. Về mặt thực chất công nghệ, hai khái niệm này đều cùng chỉ một bản thể: đó là những website dựa trên nền tảng web 2.0 để giúp người sử dụng có thể tạo lập và truyền tải thông tin. Tuy vậy, thuật ngữ truyền thông xã hội mang nghĩa rộng hơn, tổng quát cả phương tiện lẫn nội dung truyền thông, trong lúc social nhấn mạnh vấn đề nhiều hơn đến nền tảng công nghệ tạo ra nó(4). Trong nội dung bài viết, hai thuật ngữ này được sử dụng thay thế lẫn nhau.

2. Tác động của truyền thông xã hội ở Việt Nam

Theo số liệu của Bộ tin tức và Truyền thông, Việt Nam có quy mô dân số xấp xỉ 95 triệu người (xếp thứ 15 trên thế giới, trong đó, tỷ lệ sử dụng internet chiếm hơn 60%), Việt Nam là quốc gia đứng thứ 16 trên thế giới về số lượng người sử dụng internet. Một thống kê đáng lưu ý là thời kì sử dụng internet trung bình của người Việt lên tới gần 7 tiếng/ngày(5). Điều này chứng minh rằng, người Việt Nam đã dành lượng thời kì đáng kể cho những hoạt động sinh hoạt trên không gian mạng để phục vụ các nhu cầu khác nhau. Social phổ thông ở Việt Nam hiện nay là Facebook và Zalo. Facebook vẫn là social được nhiều người Việt dùng nhất hiện nay. Theo thống kê, tính đến tháng 4-2018, có 58 triệu người Việt Nam dùng Facebook, đưa Việt Nam đứng top 7 quốc gia có lượng người dùng Facebook đông đảo nhất trên thế giới. Zalo hiện có tầm khoảng 40 triệu người sử dụng hàng tháng. Đây là một số lượng đáng kể khi tổng lượng người sử dụng Zalo chiếm tới một nửa dân số Việt Nam và bằng gần 70% số người sử dụng Facebook(6). Với số lượng người tham gia social như thống kê, cộng đồng “công dân mạng” (netizens) của Việt Nam đã tạo nên nên một xã hội mạng lưới (network society) thực sự lớn mạnh và rộng khắp. Dưới sự trợ giúp của internet và các nền tảng công nghệ, các thành viên trong mạng lưới đó tự tạo ra một lượng thông tin khổng lồ, và cùng tự Viral khối lượng thông tin đó đến với nhau. Nền tảng công nghệ hỗ trợ cho việc san sớt đường link và thông tin giữa các thành viên trở thành dễ dàng hơn trước đây rất nhiều. Một thông tin thú vị có khả năng trở thành Viral rất nhanh, được truyền tải thông qua social một cách chóng mặt khi Viral từ cộng đồng của thành viên này sang cộng đồng của thành viên khác. Ví dụ trang tin vnexpress.net có tầm khoảng 2 triệu likes trên social Facebook, điều đó đồng nghĩa với việc bất kì bài báo nào được đăng tải fanpage của trang tin này thì đều sở hữu thể được tiếp cận bởi gần 2 triệu người. Về mặt lý thuyết, số lượng người đọc bài báo có thể tăng lên gấp bội, khi chỉ việc một phần trong số 2 triệu người đó san sớt đường liên kết trong cộng đồng của mình. Với cơ chế Viral thông tin có tốc độ chóng mặt, khó kiểm soát cùng số lượng thống kê về số người sử dụng social, tất cả chúng ta có thể hình dung phần nào những tác động của truyền thông xã hội tới mọi mặt của đời sống.

Tác động tích cực

Thông qua internet, thông tin trên social được thu thập, phát tán rộng rãi và nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Do không bị chi phối bởi những yếu tố về thời kì, không gian, biên giới, sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp hay trình độ học vấn… nên mọi người khi tham gia social dù là ở bất kì địa điểm nào trên toàn cầu đều sở hữu thể dễ dàng làm quen, kết giao và tương tác với nhau trên social, hình thành mạng lưới quan hệ rộng khắp mà hình thức giao tiếp truyền thống (mặt đối mặt) không thể thực hiện được (ví dụ social Twitter, trung bình một phút lại sở hữu thêm 320 ngàn tài khoản mới và hơn 98 ngàn đoạn thông điệp được san sớt)(7). Nhờ này mà ngày này, mỗi thành viên, tập thể không chỉ giới hạn quan hệ xã hội trong cùng một tộc người, một cộng đồng người dân, hay một quốc gia, vùng lãnh thổ, mà trái lại, quan hệ xã hội được mở rộng, vượt qua giới hạn về mặt địa lý, sắc tộc, tôn giáo… Truyền thông xã hội với sự tương trợ của internet đã góp phần quan trọng biến nhân loại trên khắp thế giới trở thành thành viên của một đại gia đình, xóa nhòa giới hạn về không gian, tạo lập một thế giới phẳng mà ở đó mọi người liên hệ với nhau thông qua social. Với tiện ích ưu việt đó, truyền thông xã hội đang góp phần tạo ra quan hệ rộng rãi cho nhiều thành viên trong cộng đồng tham gia social.

Xem Thêm : ✴️ Bệnh cường giáp (Hyperthyroidism)

Thông qua việc kết nối các thành viên cùng thị hiếu trên internet với nhiều mục tiêu khác nhau, không phân biệt không gian và thời kì, mọi người, nhất là giới trẻ được tạo thêm sự hiểu biết với thế giới, được tiếp cận với tri thức nhân loại, có thời cơ được tham gia các forum trao đổi, san sớt những kinh nghiệm, tri thức hữu ích trong cuộc sống và trong công việc, tăng cường thời cơ tiếp cận thông tin về các lớp học, dự án của Đảng, Quốc gia và các tổ chức chính trị – xã hội… như các lớp học huấn luyện việc làm, tự nguyện, trào lưu thanh niên lập nghiệp, thanh niên tham gia xây dựng nông thôn mới, thanh niên tham gia hoạt động tri ân đền ơn đáp nghĩa…; thông qua đó họ có thời cơ phát huy năng lực, sở trường của họ, hướng tới cuộc sống có ích, lành mạnh và từng bước hoàn thiện tư cách, rèn luyện khả năng, trau dồi lý tưởng sống.

Về lợi ích kinh tế tài chính, mạng lưới hệ thống social giúp ích rất nhiều cho những doanh nghiệp, tổ chức hoặc thành viên Marketing Thương mại, kinh doanh. Các phương tiện tiếp thị truyền thống như qua đài, quảng cáo trên truyền hình và đăng báo nay đã lỗi thời và tiêu tốn rất nhiều tiền. Tuy nhiên, với phương tiện truyền thông xã hội, các doanh nghiệp có thể kết nối với những khách hàng, mục tiêu của họ miễn phí, chỉ tốn tiền điện và thời kì. Thông qua Facebook hoặc Zalo và các trang social khác, các doanh nghiệp, tổ chức cũng như các thành viên Marketing Thương mại, kinh doanh giảm được rất lớn các ngân sách tiếp thị, quảng cáo cũng như các ngân sách khác ví như: ngân sách thuê mặt bằng, thanh toán… song song có thể Marketing Thương mại, kinh doanh 24/24, bất kể thời kì nào trong thời gian ngày. Chỉ có nhận phản hồi của khách, các chủ thể kinh doanh có thể ngay lập tức chốt đơn hàng và giao hàng ngay vào trong ngày hôm sau. Điều đó giúp tăng thời lượng bán sản phẩm và doanh thu cũng tăng lên đáng kể. Việc mua hàng trực tuyến cũng mang đến rất nhiều lợi ích cho khách hàng. Người mua hàng có thể đặt hàng bất kì đâu, bất kể thời kì nào chỉ với những thao tác rất đơn giản.

Với sự phủ sóng ngày càng rộng của tương đối nhiều dụng cụ social, truyền thông xã hội được xem là phương pháp truyền thông hữu hiệu nhất cho tất cả những người viết blog, nhà báo và người sáng tạo nội dung. Những website social mở ra thời cơ cho tất cả những nhà văn và người viết blog, được chấp nhận họ kết nối với những người dân đọc thông thuộc công nghệ và san sớt các kinh nghiệm cũng như bài báo của họ. Những độc giả này tiếp tục san sớt những bài báo, trang blog hay kinh nghiệm đó trên social, từ đó mở rộng mạng lưới những người dân theo dõi các thông tin. Bằng phương thức này, truyền thông xã hội góp phần xây dựng hình ảnh, vị thế của thành viên và tổ chức xã hội.

Tác động tiêu cực

Bên cạnh những tiện ích nêu trên, sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của social đã và đang tạo ra ra nhiều tác động tiêu cực khi đối chiếu với đời sống xã hội. Với cơ chế Viral thông tin nhanh, khó kiểm soát, các giá trị xã hội (gồm có các giá trị tốt đẹp, chuẩn mực và các giá trị lệch chuẩn), các quy tắc, luật lệ thành văn cũng như bất thành văn của xã hội tác động mạnh tới quá trình xã hội hóa thành viên của tương đối nhiều thành viên tham gia. tin tức trên social vô cùng đa dạng, phong phú và nhiều chiều, thậm chí là nhiều vấn đề được đưa ra thỉnh thoảng quá trớn, không kiểm soát. Việc truyền tin trên social cũng dễ bị “tam sao thất bản”, bị thổi phồng, thiếu tính xác thực, thiếu sự kiểm chứng và dễ bị chi phối bởi hiệu ứng đám đông và phản ứng dây chuyền sản xuất. Việc đăng tải và san sớt thông tin mà hầu như không gặp phải trở ngại nào, cùng với tâm lý thích nổi tiếng, thích được lưu ý khiến cho một phòng ban không nhỏ người dùng social tìm mọi phương pháp để đăng tải những thông tin gây sốc, những tít “giật gân”, câu khách. Đó là môi trường tự nhiên tiện lợi cho những thông tin, hình ảnh, video clip có nội dung vi phạm đạo đức lan tràn. Việc tham gia các trò chơi game đấm đá bạo lực, nghe và xem những clip có nội dung thiếu lành mạnh Viral trên các trang social cũng gây ra những tác động không nhỏ khi đối chiếu với đạo đức người dùng, đặc biệt quan trọng với trẻ em. Chúng có thể bị tác động ảnh hưởng nặng nề bởi các thông tin Viral trên website social nếu chúng được phép tham gia social. Khi xem những bức hình, thông tin có chứa nội dung đấm đá bạo lực hoặc nhạy cảm trên social, trẻ em có thể bị tác động và dẫn đến những thay đổi tiêu cực trong nhận thức, hành vi.

Trong truyền thông xã hội, tính ẩn danh, lạc danh của nguồn phát tin đã khiến người tham gia có thể tùy tiện phát ngôn hơn so với mặt đối mặt. Khi ẩn danh, người phát ngôn trên social khiến họ cảm tưởng sẽ không còn phải chịu bất kì trách nhiệm nào về hành vi hay phát ngôn của mình. Tính khó kiểm soát của tương đối nhiều thông tin trên social dẫn đến tình trạng nói láo, văng tục, chửi thề trên social của người tham gia, nhất là thanh niên diễn ra phổ thông và có tác động không nhỏ đến việc hình thành khuôn mẫu, văn hóa truyền thống xử sự của họ ở ngoài đời thực trái với thuần phong, mỹ tục. Trong thực tiễn đã có nhiều trường hợp thanh thiếu niên phạm tội, vi phạm các giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội là vì bắt chước, tuân theo các hành vi của một nhân vật, thành viên trong sự kiện nào này được Viral trên social. Đây là những nguy cơ hàng đầu dẫn tới các tiêu cực và tệ nạn xã hội.

Do tính khó kiểm soát thông tin và tính năng lạc danh, ẩn danh của người tham gia social mà truyền thông xã hội dễ trở thành phương tiện để các thế lực xấu, thù địch, chống phá Đảng và Quốc gia ta sử dụng gây rối loạn thông tin, mất trật tự xã hội và bình yên quốc gia. Chúng phát tán các thông tin xấu, không đúng sự thực trên social nhằm lôi kéo, kích động cư dân mạng tham gia những hoạt động sinh hoạt họp hành, biểu tình không phù phù hợp với quy định của pháp luật, thực hiện mưu mô “diễn biến hòa bình”, lừa bịp, mỵ dân, gieo rắc tư tưởng thiếu lành mạnh, gây thiếu tin tưởng của người dân vào Đảng và Quốc gia. Trong những lúc đó, phần lớn người tham gia social là thanh niên, đang có ít trải nghiệm, chưa đủ khả năng để “tỉnh táo” sàng lọc thông tin nên những dạng thông tin ô nhiễm với tốc độ phát tán, Viral rất nhanh, dễ tạo hiệu ứng xã hội theo chiều rộng sẽ làm “méo mó” nhận thức, tác động xấu đến hành vi của thanh niên trên không gian mạng cũng như ngoài đời thực.

3. Các giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tạo động tiêu cực của truyền thông xã hội

a) Nhóm giải pháp khi đối chiếu với người tham gia social

Một là, cần chú trọng tăng cường các giải pháp tuyên truyền nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức, trách nhiệm khi tham gia các nền tảng truyền thông xã hội của mọi công dân. Bản thân các trang thông tin điện tử hay social chỉ là dụng cụ cho tất cả những người dùng sử dụng. Các mặt trái của truyền thông xã hội chỉ tồn tại khi ý thức cộng đồng không được giáo dục đầy đủ. Cần nêu ra và giáo dục cho cộng đồng những nguyên tắc khi tham gia truyền thông xã hội. Trong mọi môi trường tự nhiên giáo dục, từ gia đình, nhà trường và xã hội, nhất là thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và truyền thông liên thành viên cần định hướng giá trị để mọi người, nhất là từng lớp thanh niên biết tránh khỏi các biểu hiện méo mó trong nhận thức và hành vi. Ngoài những cảm xúc đẹp, những hình ảnh giàu tính thẩm mỹ, những khoảnh khắc quý giá của tình bạn, tình yêu, tình cảm gia đình… trong cuộc sống được đưa lên các trang social, mọi người khi tham gia social còn phải có ý thức phản bác bỏ các thông tin phiến diện, sai trái, những luận điệu xuyên tạc nhằm gây mất bình yên trật tự xã hội hoặc gây chia rẽ khối kết đoàn dân tộc bản địa.

Hai là, khi tham gia môi trường tự nhiên mạng, các thành viên social nên lan tỏa những thông tin, hình ảnh tốt đẹp về những hoạt động sinh hoạt xã hội, hoạt động vì cộng đồng, phê phán những cái xấu, biểu hiện méo mó, hướng tới thông điệp nhân văn, xây dựng văn hóa truyền thống xử sự trên mạng thanh lịch, văn minh. Song song cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, không sử dụng tiếng nói lai căng, tục tĩu, cá biệt, có tính đấm đá bạo lực; chỉ đăng, phát thông tin rõ nguồn gốc, đã được kiểm chứng. Đặc biệt quan trọng, các công dân mạng không được lập nhóm, hội để nói xấu, đả kích lẫn nhau; không đăng tải, san sớt thông tin có thể gây xúc phạm, làm mất đi uy tín, danh dự thành viên; không “vào hùa” theo đám đông khi chưa nắm vững về vụ việc đó hoặc không có địa thế căn cứ. Trong quá trình đăng tải các thông tin, các công dân mạng không đăng những thông tin bịa đặt, gây tác động ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, gây kích động đấm đá bạo lực, phân biệt dân tộc bản địa, vùng miền, nam nữ, tôn giáo, hình ảnh trái thuần phong mỹ tục Việt Nam, thông tin vi phạm pháp luật; không sử dụng những ứng dụng không rõ nguồn gốc để tránh bị làm phiền bởi các tin rác hay bị lấy cắp thông tin tài khoản.

Ba là, các người dân mạng cần nắm rõ và tuân thủ các quy định của Luật Bình yên mạng. Trên cơ sở đó, mỗi người dân mạng cần biến trang social của mình thành một kênh thông tin lành mạnh và thực hiện truyền thông xã hội trên ý thức trách nhiệm cộng đồng, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình, phản bác bỏ… những thông tin phản động, ô nhiễm trên social.

Bốn là, các thành viên khi tham gia social cần trang bị các kỹ năng tự bảo vệ thông tin thành viên, phương pháp sàng lọc, tiếp nhận thông tin. Việc người dùng nâng cao sức “đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa truyền thống tốt, xử sự văn minh, lịch lãm trong tranh luận, phản biện, có năng lực về tin tức, nhận định được độ tin cậy của thông tin trên truyền thông xã hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng social mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ những giá trị của họ, của cộng đồng và dân tộc bản địa.

b) Nhóm giải pháp liên quan đến chủ thể quản lý và hoàn thiện cơ sở pháp luật

Một là, tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý hoạt động thông tin trên mạng nói chung và social nói riêng, tập trung nghiên cứu xây dựng Luật về quản lý thông tin trên mạng để tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp; tích cực xây dựng khuông khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt động, phát triển lành mạnh, đúng hướng; kịp thời bổ sung, hoàn thiện các văn bản cấp thiết phù phù hợp với thực tiễn để đảm bảo môi trường tự nhiên pháp lý rõ ràng, sáng tỏ, công khai và đồng đẳng giữa các tổ chức, thành viên khi tham gia truyền thông xã hội. Kịp thời thiết chế hóa các hướng dẫn Luật Bình yên mạng năm 2018 góp phần vào quản lý tốt truyền thông xã hội.

Hai là, hoàn thiện và triển khai bộ quy tắc xử sự trên social cho những nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng social, hướng tới xây dựng môi trường tự nhiên mạng lành mạnh, an toàn tại Việt Nam; tuyên truyền, phổ thông Luật Bình yên mạng sâu rộng tới những tầng lớp xã hội và xây dựng những giải pháp xử phạt, chế tài khi đối chiếu với các người dân mạng vi vi phạm luật. Các thành viên, tổ chức cần phải có trách nhiệm pháp lý với những thông tin đưa lên social hay trang thông tin điện tử nhằm hạn chế tối đa những phát ngôn, hành xử thiếu văn hóa truyền thống trên social.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện các văn bản cho việc triển khai thực hiện hiệu quả Luật Báo chí truyền thông 2016, trong đó chú trọng việc nâng cao vai trò định hướng thông tin của những cơ quan báo mạng truyền thống, tích cực, dữ thế chủ động phê phán, phản bác bỏ thông tin xấu, độc trên mạng để góp phần khắc phục những mặt trái của truyền thông xã hội.

c) Nhóm giải pháp liên quan đến chủ thể cung cấp social

Xem Thêm : Massage Thái Là Gì? 99 Động Tác Massage Thái Chuyên Nghiệp

Một là, các nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ, khai thác dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ pháp luật Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, bình yên quốc gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện sự hợp tác, tuân thủ các quy định khi vào Việt Nam như đặt cơ quan thay mặt đại diện, thiết lập tính đích danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ những trang mạo danh các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Quốc gia, xóa khỏi triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thực,… Cần coi trọng hơn các giải pháp kinh tế tài chính, yêu cầu trách nhiệm của những doanh nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà người ta được hưởng.

Hai là, những đơn vị cung cấp dịch vụ cũng cần được thường xuyên có những cảnh báo gửi đến khách hàng, tránh để bị kẻ xấu tận dụng mạo danh, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi khách hàng của mình.

d) Nhóm giải pháp khi đối chiếu với những cơ quan quản lý các phương tiện truyền thông

Một là, để quản lý tốt, những cơ quan có chức năng quản lý, giám sát các phương tiện truyền thông cần nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện đồng bộ mạng lưới hệ thống văn bản pháp luật với những quy định cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội… thay vì chỉ dừng ở quy tắc kiểm soát và điều chỉnh mang tính khuyến nghị đạo đức và văn hóa truyền thống. Bởi lẽ, lúc các ràng buộc pháp lý không cụ thể, rõ ràng và đủ mạnh thì những quy tắc đạo đức, văn hóa truyền thống cũng rất khó để đi vào cuộc sống.

Hai là, tăng cường hơn nữa công việc thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm, nhất là sự phối hợp giữa những cơ quan chức năng có liên quan và của tất cả mạng lưới hệ thống chính trị. Cần xử lý nghiêm những hành vi mạo danh gây tác động ảnh hưởng nghiêm trọng tới các thành viên, đơn vị; xử lý hình sự những hành vi mạo danh để trục lợi, lường đảo cướp đoạt tài sản. Tích cực triển khai thực hiện Luật Bình yên mạng với những chế tài đủ mạnh để răn đe, xử lý những hành vi vi phạm, gây hại như lưu trữ, cung cấp, đăng tải, phát tán tin giả, sai sự thực, xuyên tạc, vu oan giáng họa, nói xấu, kích động, chống phá Đảng, Quốc gia trên internet, social…

Ba là, tăng cường các giải pháp kỹ thuật. Việc sử dụng các giải pháp kỹ thuật nhằm hạn chế, ngăn chặn những thông tin ô nhiễm, xâm phạm bình yên quốc gia, chống phá Việt Nam vẫn rất cấp thiết trong toàn cảnh hiện nay. Các đơn vị chuyên trách về bình yên mạng cần kịp thời tương trợ với những tổ chức, thành viên khi phát hiện tín hiệu xuất hiện những “lỗ hổng” của việc bảo mật thông tin và cả khi bị tội phạm tin học tiến công.

________________

Bài đăng trên Tập san Lý luận chính trị số 10-2019

(1) Globe, Gordon: “The history of social networking”, Tập san Digital Trend, http://www.digitaltrends.com, ngày 22-11-2013.

(2) Kaplan, Andreas M., and Michael Haenlein: “Users of the world, unite! The challenges and opportunities of Social Tiếp thị quảng cáo”, Tập san Business horizons 53.1 (2010): 59-68.

(3) Chính phủ nước nhà nước CHXHCN Việt Nam, Nghị định Về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên mạng, Số: 72/2013/NĐ-CP.

(4) Nguyễn Khắc Giang: “Ảnh hưởng tác động của truyền thông xã hội đến môi trường tự nhiên báo mạng Việt Nam”, Tập san Khoa học – ĐH Quốc gia TP. Hà Nội, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 12-19.

(5) “Hơn 60% dân số Việt Nam dùng internet,

truy cập trung bình 7 tiếng/ ngày”, https://www.24h. com.vn, https://tuyengiao.vn, ngày 6-12-2018.

(6) “Điểm danh 11 social ưa thích của người Việt Nam”, http://tuyengiao.vn, ngày 11-2-2019.

(7) Nguyễn Thị Trường Giang (chủ biên): Báo mạng điện tử và những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, TP. Hà Nội, 2014, tr.21.

ThS Nguyễn Thị Lan

Học viện chuyên nghành Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

You May Also Like

About the Author: v1000

tỷ lệ kèo trực tuyến manclub 789club