Với sự phát triển của nền kinh tế tài chính thì nên cần có sự đo lường và thống kê tốc độ phát triển để sở hữu thể nắm bắt được sự phát triển của kinh tế tài chính. Từ đó thì tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực được biểu thị bằng tỉ lệ phần trăm để biểu thị tốc độ thay đổi trong GDP của một quốc gia. Vậy quy định về tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực là gì, công thức tính và ví dụ được quy định thế nào?
1. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tài chính thực là gì?
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực, hay tốc độ tăng trưởng GDP thực, đo lường và thống kê tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính, được biểu thị bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, được kiểm soát và điều chỉnh theo mức lạm phát hoặc giảm phát. Nói cách khác, nó cho thấy những thay đổi trong giá trị của tất cả sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ được sinh sản bởi một nền kinh tế tài chính – sản lượng kinh tế tài chính của một quốc gia – trong những khi tính tới việc biến động giá cả.
Tăng trưởng kinh tế tài chính là sự việc tăng thêm sinh sản hàng hoá và dịch vụ kinh tế tài chính so với thời kỳ này sang thời kỳ khác. Nó có thể được đo lường và thống kê bằng giá trị danh nghĩa hoặc thực tế (được kiểm soát và điều chỉnh theo mức lạm phát). Theo truyền thống, tăng trưởng kinh tế tài chính tổng hợp được đo lường và thống kê bằng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP), mặc dù thỉnh thoảng các số liệu thay thế được sử dụng.
Tăng trưởng kinh tế tài chính là sự việc tăng thêm sinh sản sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế tài chính.
Sự tăng thêm của tư liệu sinh sản, lực lượng lao động, công nghệ và vốn con người đều phải sở hữu thể góp phần vào tăng trưởng kinh tế tài chính.
Tăng trưởng kinh tế tài chính thường được đo bằng sự tăng thêm tổng mức vốn thị trường của sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ bổ sung được sinh sản, sử dụng các ước tính như GDP.
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tài chính thực xem xét mức lạm phát trong phép đo tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính, không như tỷ lệ tăng trưởng GDP danh nghĩa.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực tránh khỏi sự biến dạng do các thời kỳ mức lạm phát hoặc giảm phát cực đoan gây ra.
Nó được những nhà hoạch định chính sách sử dụng để xác định tốc độ tăng trưởng theo thời kì và so sánh tốc độ tăng trưởng của khá nhiều nền kinh tế tài chính tương tự với những tỷ lệ mức lạm phát khác nhau.
Hiểu được tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực được biểu thị bằng phần trăm thể hiện tốc độ thay đổi trong GDP của một quốc gia, thường là từ thời điểm năm này sang năm khác. Một thước đo tăng trưởng kinh tế tài chính khác là tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thỉnh thoảng được ưu tiên hơn nếu nền kinh tế tài chính của một quốc gia về cơ bản phụ thuộc vào thu nhập từ nước ngoài.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là ước tính tổng mức vốn của tất cả những sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một thời kỳ nhất định theo tư liệu sinh sản thuộc về của người dân của một quốc gia. GNP thường được tính bằng phương pháp lấy tổng chi tiêu tiêu dùng thành viên, góp vốn đầu tư tư nhân trong nước, chi tiêu chính phủ nước nhà, xuất khẩu ròng rã và bất kỳ thu nhập nào mà người trú ngụ tìm kiếm được từ các khoản góp vốn đầu tư ở nước ngoài, trừ đi thu nhập tìm kiếm được trong nền kinh tế tài chính trong nước của người trú ngụ nước ngoài. Xuất khẩu ròng rã thay mặt cho việc khác biệt giữa những gì một quốc gia xuất khẩu trừ đi bất kỳ nhập khẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ nào.
GNP liên quan đến một thước đo kinh tế tài chính quan trọng khác được gọi là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tính đến tất cả sản lượng được sinh sản trong biên giới của một quốc gia bất kể ai sở hữu tư liệu sinh sản. GNP khai mạc bằng GDP, cộng thu nhập góp vốn đầu tư của người dân từ các khoản góp vốn đầu tư ra nước ngoài và trừ thu nhập góp vốn đầu tư của người dân nước ngoài tìm kiếm được trong một quốc gia.
GNP đo lường và thống kê tổng mức vốn tiền tệ của sản lượng được sinh sản bởi người dân của một quốc gia. Do đó, bất kỳ sản lượng nào do người dân nước ngoài sinh sản trong biên giới của quốc gia phải được loại trừ trong tính toán GNP, trong những khi bất kỳ sản lượng nào do người dân của quốc gia phía bên ngoài biên giới sinh sản phải được tính. GNP không gồm có sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ trung gian để tránh tính hai lần vì chúng đã được phối hợp trong giá trị của sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ cuối cùng.
Hoa Kỳ đã sử dụng GNP cho tới năm 1991 làm thước đo chính cho hoạt động kinh tế tài chính của mình. Sau thời điểm lúc đó, nó khai mạc sử dụng GDP thay thế vì hai lý do chính. Thứ nhất, bởi vì GDP tương ứng chặt chẽ hơn với những tài liệu kinh tế tài chính khác của Hoa Kỳ mà các nhà hoạch định chính sách quan tâm, ví như việc làm và sinh sản công nghiệp, ví như GDP đo lường và thống kê hoạt động trong ranh giới của Hoa Kỳ và bỏ qua các quốc tịch. Thứ hai, việc chuyển đổi sang GDP là để tạo xét tuyển so sánh giữa các quốc gia vì hồ hết các quốc gia khác vào thời điểm lúc đó chủ yếu sử dụng GDP.
Suy thoái và khủng hoảng là một thuật ngữ kinh tế tài chính vĩ mô đề cập tới việc suy giảm đáng kể trong hoạt động kinh tế tài chính nói chung trong một khu vực được chỉ định. Nó thường được ghi nhận là hai quý suy giảm kinh tế tài chính liên tục, được phản ánh bởi GDP kết phù hợp với các chỉ số hàng tháng như tỷ lệ thất nghiệp tăng thêm. Tuy nhiên, Văn phòng Nghiên cứu Tài chính Quốc gia (NBER), cơ quan chính thức tuyên bố suy thoái và phá sản, đã cho chúng ta thấy hai quý suy giảm liên tục trong GDP thực tế không còn được khái niệm thế nào nữa. NBER khái niệm suy thoái và phá sản là sự việc suy giảm đáng kể trong hoạt động kinh tế tài chính lan rộng trong nền kinh tế tài chính, kéo dài thêm hơn nữa một vài tháng, thường có thể nhìn thấy ở GDP thực, thu nhập thực, việc làm, sinh sản công nghiệp và lệch giá bán buôn-bán lẻ.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật Dương Gia về các nội dung liên quan đến Cầu hoàn toàn giãn nở là gì, sản phầm và ví dụ về cầu hoàn toàn giãn nở.
2. Công thức tính và ví dụ cụ thể:
Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế là một thước đo hữu ích hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP danh nghĩa vì nó xem xét tác động ảnh hưởng của mức lạm phát khi đối chiếu với tài liệu kinh tế tài chính. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tài chính thực là một số lượng “đồng đô la không đổi”, tránh sự sai lệch từ các thời kỳ mức lạm phát hoặc giảm phát cực đoan để mang ra một thước đo nhất quán hơn.
Tính toán tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tài chính thực GDP là tổng chi tiêu của người tiêu dùng, chi tiêu kinh doanh, chi tiêu của chính phủ nước nhà và tổng xuất khẩu, trừ đi tổng nhập khẩu. Phương pháp tính toán bao tính sổ trong mức lạm phát để đạt được số lượng GDP thực tế như sau:
GDP thực = GDP / (1 + mức lạm phát Tính từ lúc năm cơ sở)
Năm gốc là năm được chỉ định, được update định kỳ bởi chính phủ nước nhà và được sử dụng làm điểm so sánh cho những tài liệu kinh tế tài chính như GDP. Phương pháp tính tỷ lệ tăng trưởng GDP thực dựa trên GDP thực tế, như sau:
Tốc độ tăng trưởng GDP thực = (GDP thực của năm gần đây nhất – GDP thực của năm trước) / GDP thực của năm trước.
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tài chính thực được sử dụng thế nào
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực tế của một quốc gia rất hữu ích cho những nhà hoạch định chính sách của chính phủ nước nhà khi đưa ra các quyết định về chính sách tài khóa. Những quyết định này còn có thể được ứng dụng để xúc tiến tăng trưởng kinh tế tài chính hoặc kiểm soát mức lạm phát.
Các số liệu về tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực tế phục vụ hai mục tiêu:
Số lượng tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực được sử dụng để so sánh tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính ngày nay với những thời đoạn trước để xác định xu hướng tăng trưởng chung theo thời kì.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tài chính thực hữu ích khi so sánh tốc độ tăng trưởng của khá nhiều nền kinh tế tài chính tương tự có tỷ lệ mức lạm phát khác nhau về cơ bản. So sánh giữa tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa của một quốc gia chỉ có mức lạm phát 1% với tỷ lệ tăng trưởng GDP danh nghĩa của một quốc gia có mức lạm phát 10% sẽ là sai trái đáng kể vì GDP danh nghĩa không kiểm soát và điều chỉnh theo mức lạm phát.
Cân nhắc đặc biệt quan trọng
Tốc độ tăng trưởng GDP thay đổi trong bốn thời đoạn của chu kỳ luân hồi kinh doanh: đỉnh cao, thu hẹp, đáy và mở rộng. Trong một nền kinh tế tài chính đang mở rộng, tốc độ tăng trưởng GDP sẽ tích cực vì các doanh nghiệp đang phát triển và tạo ra việc làm cho năng suất cao hơn nữa.
Tuy nhiên, nếu tốc độ tăng trưởng vượt quá 3% hoặc 4%, tăng trưởng kinh tế tài chính có thể bị đình trệ. Một thời kỳ thu hẹp sẽ theo sau lúc các doanh nghiệp ngừng góp vốn đầu tư và thuê mướn, vì điều này sẽ dẫn đến việc người tiêu dùng có ít tiền hơn để chi tiêu. Nếu tốc độ tăng trưởng chuyển sang âm, tổ quốc sẽ suy thoái và phá sản.