Phỉ Thuý là gì? Các chủng loại và cách đánh giá Phỉ Thuý chính xác nhất

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Phi thuy la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa và chiến lược hiệu quả. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi để cập nhật kiến thức mới.

Tổng quan ngọc Phỉ Thúy (Jadeite jade)

Bạn Đang Xem: Phỉ Thuý là gì? Các chủng loại và cách đánh giá Phỉ Thuý chính xác nhất

Tên gọi tiếng Anh: JADEITE JADE (đọc: dết – đờ), dịch sang tiếng Việt: Jadeit.

Tên gọi tiếng Trung: FeiCui 翡翠 (đọc: phẩy – chuây), dịch sang tiếng Việt: Phỉ Thúy.

Công thức hóa học: Sodium Aluminum Iron Silicate Na(Al, Fe)Si2O6

Lớp: Silicates

Nhóm: Pyroxene

Cấu trúc tinh thể: Monoclinic

Sắc tố: Xanh, trắng, vàng, cam, tím, xám, đen, hỗn hợp (Xem thêm ở phần định giá ngọc)

Độ cứng: 6.5 – 7 (Mohs scale)

Chỉ số khúc xạ: 1.652 – 1.688

Tỷ trọng: 3.30 – 3.38

Độ trong suốt: Từ mờ đục cho tới trong mờ (bán trong)

Nguồn gốc, lịch sử dân tộc Ngọc Phỉ Thúy (ngọc Jadeit): là loại đá quý nguồn gốc từ Myanmar ,lịch sử dân tộc việc khai thác và sử dụng trên qui mô lớn khoảng tầm vài trăm năm gần đây. Sau thời điểm được phát hiện và được sử dụng làm chất liệu khắc tạc những vật trưng bày, làm đồ trang sức quý, ngọc Phỉ Thúy (ngọc Jadeit) trở lên phổ thông và có sức hút lớn khi đối chiếu với mọi từng lớp trở thành loại đá quý có mức giá trị số 1 thế giới.

Trong hoạt động thương nghiệp, ngọc phỉ thúy có rất nhiều thuật ngữ chuyên ngành. Thuật ngữ này đều là những nhận thức trực quan và miêu tả hình tượng của thương nhân khi đối chiếu với ngọc trong thực tiễn, có hình tượng sinh động, nhưng thiếu tính khoa học và khối hệ thống. Để sở hữu thể khiến hai phương diện trao đổi thương nghiệp và nghiên cứu khoa học có sự thống nhất. Nội dung bài viết này xuất phát từ góc độ Nham thạch học và Tài nguyên học, tiến hành phân tích những hiện tượng kỳ lạ được miêu tả trong thuật ngữ thương nghiệp, chỉ ra thực chất của những hiện tượng kỳ lạ này, tạo nền tảng cho việc nhận thức ngọc phỉ thúy một cách khoa học và chuẩn xác.

Năm 1846, 1863, nhà khoáng vật người Pháp Alexis Domour đã tuần tự lượt phân tích hóa nghiệm khi đối chiếu với đá nephrite jade và vật phẩm được làm từ đá ngọc phỉ thúy được lấy mẫu từ Trung Quốc. Sau đó, mang về châu Âu trong Cuộc chiến tranh Nha phiến lần thứ hai. Lần trước nhất, đứng từ góc độ khoáng vật văn minh để chỉ ra thành phần khoáng vật, hóa học và tính chất vật lý của nephrite và ngọc phỉ thúy. Nhà khoáng vật đã địa thế căn cứ vào độ cứng khác nhau của nephrite và ngọc phỉ thúy để tiến hành phân loại, gọi nephrite là ngọc mềm, còn ngọc phỉ thúy là ngọc cứng (jadeite). Do thành phần hóa học, khoáng vật chủ yếu của ngọc phỉ thúy là NaAl(Si2O6), vì vậy trong Khoáng vật học gọi NaAl(Si2O6) ngọc cứng. Nhiều người đánh đồng ngọc phỉ thúy và khoáng vật ngọc cứng là giống nhau, nhận định rằng ngọc phỉ thúy đấy là khoáng vật ngọc cứng, điều này là không chuẩn xác. Nhìn từ góc độ Nham thạch học, ngọc phỉ thúy là hợp thể khoáng vật nhóm pyroxene với thành phần khoáng vật chủ yếu là ngọc cứng và khoáng vật nhóm amphibole tổ thành, là loại ngọc cứng jadeite hoặc đá xanh omphacite, không phải là tinh thể khoáng vật ngọc cứng đơn.

Tên gọi ngọc phỉ thúy xuất hiện từ quá trình hoạt động thương nghiệp, có tính lịch sử dân tộc và tính chất kỹ năng tay nghề. Từ góc độ Nham thạch học, ngọc phỉ thúy được khái niệm là ngọc cứng hoặc đá xanh có công nghệ và giá trị thương nghiệp cao, đạt đến cấp ngọc thạch. Khái niệm này còn có hai ý nghĩa: Một là thành phần khoáng vật tổ thành chủ yếu từ ngọc cứng hoặc đá xanh; hai là trong hoạt động thanh toán thương nghiệp có mức giá trị và công nghệ cao. Nhìn từ góc độ thương nghiệp ngọc phỉ thúy, chữ “phỉ” chỉ ngọc phỉ thúy red color, vàng đậm nhạt trong các loại ngọc phỉ thúy, chữ “thúy” dùng để làm chỉ các loại ngọc phỉ thúy có màu xanh đậm nhạt, phỉ thúy màu xanh hạng sang thông thường được gọi là “cao thúy”. Phỉ thúy song song cũng luôn tồn tại nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng là những nham thạch có thành phần khoáng vật tổ thành chủ yếu từ ngọc cứng hoặc đá xanh, bất luận có màu xanh hay là không, đều được gọi là phỉ thúy. Về nghĩa hẹp chỉ đá xanh có thành phần khoáng vật nhóm tổ thành chủ yếu từ ngọc cứng hoặc đá xanh đạt đến Lever ngọc thạch.

Do nguyên nhân lịch sử dân tộc, tên khoáng vật NaAl(Si2O6) không theo nguyên tắc đặt tên khoáng vật pyroxene, còn việc đặt tên theo đặc trưng đá tổ thành từ NaAl(Si2O6), gọi NaAl(Si2O6) là ngọc cứng, tiếng Anh là Jadeite. Song song ngọc phỉ thúy cũng mang tên tiếng Anh là jadeite. Chính vì vậy, nhiều người không phân biệt được rõ ràng giữa ngọc phỉ thúy và ngọc cứng. Nếu đem khoáng vật ngọc cứng NaAl(Si2O6) đặt tên theo phương pháp phân loại Pyroxen để gọi phỉ thúy với cái tên jadeite jade hoặc fei cui, sự phức tạp giảm đi tương đối nhiều.

Phân loại ngọc Phỉ Thúy (Jadeit) theo độ quý: Tính đa dạng của chủng loại thành phẩm ngọc Phỉ Thúy và phẩm chất ngọc Phỉ Thúy khiến việc phân cấp thành phẩm ngọc Phỉ Thúy gặp nhiều khó khăn. So với thương nhân có kinh nghiệm thường phân loại ngọc theo 5 yếu tố: Sắc tố, độ trong suốt, kết cấu, độ tinh khiết, phẩm cách

CÁC CHỦNG CỦA PHỈ THUÝ

Do phỉ thuý là lúc ngọc jadeite đạt đến Lever màu và phẩm chất cao nên có rất nhiều loại và họ chia ra làm các chủng:

1. PHỈ THUÝ LÃO KHANH CHỦNG, thương giới thường gọi là “Lão Khanh Thủy Tinh Chủng”

Thường lóng lánh trong suốt, tính chất của nó nhẵn nhụi tinh thuần không tỳ vết, nhan sắc tinh khiết, sáng ngời, nồng đậm, lục sắc đều đặn; Phỉ Thúy Lão Khanh Chủng tinh thể jadeite rất nhỏ, bởi vậy, bằng mắt thường rất khó nhìn thấy “tính thúy (tính chất màu xanh)”; Phỉ Thúy Lão Khanh Chủng khi ánh sáng chiếu vào hiện lên tình trạng bán trong suốt hoặc hoàn toàn trong suốt, là phỉ thúy trung thượng phẩm hoặc cực phẩm.

2. PHỈ THUÝ BĂNG CHỦNG VÀ LÃO KHANH CHỦNG

Có tính chất tương tự, vô sắc hoặc thiếu sắc, Băng Chủng đặc thù là phía bên ngoài hiện ra rất sáng bóng, bán trong suốt tới trong suốt, trong trẻo giống như băng, làm cho tất cả những người ta có cảm giác băng thanh ngọc oánh. Nếu trong Phỉ Thúy Băng Chủng có đường hoa văn hoặc đường ngắt quãng màu lam sắc, thì phỉ thúy như vậy gọi là “Lam Hoa Băng”, là một loại thông thường trong Phỉ Thúy Băng Chủng.

Băng Chủng là loại ngọc thường dùng để làm chế tạo vòng tay hoặc vật trang sức quý. Phỉ Thúy Băng Chủng vô sắc và Phỉ Thúy “Lam Hoa Băng” giá trị không có phân chia cao thấp rõ ràng, kỳ thật giá cả chủ yếu quyết định bởi thị hiếu của mọi người. Băng Chủng là phỉ thúy trung thượng đẳng hoặc trung cấp.

3. PHỈ THUÝ THUỶ CHỦNG NGỌC

Chất kết cấu hơi to hơn Lão Khanh Thủy Tinh Chủng, sáng bóng, độ trong suốt cũng hơi thấp hơn Lão Khanh Thủy Tinh Chủng nhưng tương tự hoặc tương đương với Băng Chủng. Đặc điểm của nó là thông thấu như nước nhưng sáng bóng nhu hòa, xem kỹ kết cấu bên trong, có thể thấy được một tí “Sóng gợn”, hoặc có chút ít vết rạn tối màu và văn đá, tình cờ còn tồn tại thể thấy được tạp chất cực nhỏ, sợi bông. Có Chuyên Viên nói Phỉ Thúy Thủy Chủng là sắc đạm hoặc vô sắc, chất lượng sản phẩm và dịch vụ kém một tí so với Phỉ Thúy Lão Khanh Chủng. Là phỉ thúy trung thượng đẳng, tình cờ gặp một chiếc thượng đẳng.

4. PHỈ THUÝ TỬ LA LAN

Đây là một loại phỉ thúy nhan sắc giống hoa màu tím của cây Tử La Lan, giới châu báu lại gọi sắc tố của Tử La Lan là “Xuân” hoặc “Xuân sắc”. Trong phỉ thúy “xuân sắc” có những cấp bậc cao, trung, thấp, không phải chỉ có là Tử La Lan, thì nhất định có mức giá, nhất là thượng phẩm, còn phải phối hợp tính chất, độ trong suốt, công nghệ chế tạo trình độ thứ hạng tiến hành tổng hợp lại thành chỉ tiêu đánh giá và nhận định chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Phỉ thúy màu tím thường ngày không đậm, giới phỉ thúy địa thế căn cứ vào sắc thái màu tím đậm nhạt dị đồng, lấy sắc tím của phỉ thúy phân chia thành màu hồng tím, màu cà tím và lam tím, hồng tím thường ngày tính chất khá mịn, độ trong suốt tốt hơn, màu cà tím thứ hai, lam tím sau rốt.

5. PHỈ THUÝ BẠCH ĐỂ THANH

Phỉ Thúy Bạch Để Thanh đặc điểm là đế trắng như tuyết, lục sắc trên nền trắng có vẻ thực tiên diễm, xanh trắng rõ ràng. Chủng phỉ thúy cực phẩm rất dễ phân biệt: Lục sắc ở trên nền đế trắng phân loại rõ ràng, độ trong suốt kém, là đục hoặc là hơi trong suốt; ngọc kiện có cấu trúc sợi và hạt mịn, nhưng chủ yếu là cấu trúc hạt mịn, quan sát dưới kính hiển vi (độ phóng đại 30 ~ 40 lần) mặt ngoài thông thường sẽ có kết cấu lỗ hoặc kết cấu không đồng đều. Nên chủng loại phần đông là phỉ thúy chất lượng sản phẩm và dịch vụ thường, rất ít có sắc tố xanh trắng rõ ràng, lục sắc diễm lệ mà hình dạng lại tốt, sắc tố, đế phi thường hài hòa, có thể đạt tới phẩm chất hạng sang.

6. PHỈ THUÝ HOA THANH

Phỉ Thúy Hoa Thanh sắc tố xanh biếc ngân xanh tản mác, cực bất quy tắc; tính chất có to có nhỏ, bán trong suốt. Màu nền của nó là màu xanh nhạt hoặc sắc tố khác. Như màu xám nhạt hoặc xanh lá cây, kết cấu chủ yếu là sợi cùng hạt mịn xen kẽ. Phỉ Thúy Hoa Thanh đặc điểm là lục sắc không đều. Có chỗ dày đặc, có chỗ tương đối lưa thưa, sắc có đậm cũng luôn tồn tại nhạt. Trong Phỉ Thúy Hoa Thanh còn tồn tại một loại trạng thái kết cấu chỉ có hạt, cảm giác không đủ nước, nguyên nhân bởi vì kết cấu thô ráp, cho nên độ trong suốt thường thường rất kém. Hoa Thanh Chủng là phỉ thúy chất lượng sản phẩm và dịch vụ thường hoặc phẩm chất thấp.

7. PHỈ THUÝ HỒNG PHỈ

Phỉ Thúy Hồng Phỉ nhan sắc đỏ tươi hoặc cam hồng, ở thị trường thực dễ dàng nhìn thấy. Màu của Hồng Phỉ là sau thời điểm tinh thể jadeite sinh ra mới hình thành, do liên kết quặng sắt tạo thành. Đặc điểm này tạo thành red color hoặc đỏ thẫm, Hồng Phỉ tốt sắc tố đẹp, có ánh thủy tinh, độ trong suốt là bán trong suốt, chế phẩm Hồng Phỉ thường là chất lượng sản phẩm và dịch vụ thường hoặc trung, kém thương phẩm, nhưng cũng luôn tồn tại Hồng Phỉ hạng sang: Ánh sáng tươi đẹp, tính chất nhẵn nhụi, phi thường xinh đẹp, được mọi người yêu thích, là phỉ thúy mang sắc tố như ý cát tường.

8. HOÀNG TÔNG PHỈ

Hoàng Tông Phỉ là phỉ thúy có sắc tố từ vàng đến nâu nhạt hoặc nâu xám, độ trong suốt hơi thấp. Một loạt chế phẩm phỉ thúy loại này ở trên thị trường tùy ý có thể thấy được. Sắc tố của chúng cũng là sau thời điểm tinh thể jadeite sinh ra mới hình thành, thường thường phân loại red color ở phía bên ngoài, do liên kết quặng sắt nhuộm thành. Ở trên thị trường, Hồng Phỉ giá trị lơn hơn Hoàng Phỉ, Hoàng Phỉ(vàng) lơn hơn Tông Hoàng Phỉ (nâu vàng), Hạt Hoàng Phỉ (nâu xám) xếp tiếp theo. Nhưng do nguyên nhân thị hiếu khác nhau và nét đặc sắc của từng vật phẩm trang sức quý khác nhau khiến giá cả khác nhau tùy tình huống.

9. PHỈ THUÝ ĐẬU CHỦNG

Phỉ Thúy Đậu Chủng tên gọi tắt là Đậu Chủng, Phỉ Thúy Đậu Chủng là một loại phỉ thúy thực thông thường trong gia tộc.

10. PHỈ THUÝ PHÙ DUNG CHỦNG

Phỉ Thúy Phù Dung Chủng tên gọi tắt Phù Dung Chủng, nhất phẩm phỉ thúy loại này thường ngày là màu xanh nhạt, không chứa lẫn màu vàng, màu xanh tương đối trong suốt, tinh khiết, có khi đáy hơi hồng nhạt.

11. PHỈ THUÝ MÃ NHA CHỦNG

Phỉ Thúy Mã Nha Chủng tính chất tuy rằng khá nhỏ, nhưng đục, mặt ngoài sáng bóng giống như đồ sứ.

12. PHỈ THUÝ NGẪU PHẤN CHỦNG

Phỉ Thúy Ngẫu Phấn Chủng tính chất nhẵn nhụi giống như bột củ sen, có màu hồng nhạt, red color tím [thiển xuân sắc], là vật liệu tốt cho hàng mỹ nghệ.

Xem Thêm : App Meyo là gì? Ứng dụng Meyo lừa đảo người dùng hay không?

13. PHỈ THUÝ NGHIỄM PHIẾN

Nghiễm Phiến đặc điểm là ở dưới ánh sáng màu xanh chuyển ám hoặc trở thành màu đen, tính chất tương đối xù xì thế nước khá khô.

14. PHỈ THUÝ TI CHỦNG

Phỉ Thúy Thúy Ti Chủng đây là một loại phỉ thúy tính chất, sắc tố tốt, trên thị trường là loại ngọc trung hạng sang.

15. PHỈ THUÝ KIM TI CHỦNG

Kim Ti Chủng ở đế mỏng bên trong có hiện lên các sợi màu vàng, cam vàng, là phỉ thúy thể hiện rõ ràng cấu trúc sợi song song với sắp xếp định hướng kết cấu, ngoại trừ sắc tố phía bên ngoài khác với Thúy Ti Chủng, thì những đặc trưng khác cũng giống với Thúy Ti Chủng. Nhưng thường ngày Phỉ Thúy Kim Ti Chủng giá thấp hơn Phỉ Thúy Thúy Ti chủng.

16. PHỈ THUÝ DU KHANH

Phỉ Thúy Du Thanh tên gọi tắt Du Thanh Chủng hoặc Du Tẩm, độ thông thấu cùng sáng bóng thoạt nhìn có cảm giác bóng nhoáng, trong thị trường tùy ý có thể thấy được, là phỉ thúy thấp cấp, thường dùng nó để chế tạo vật trang sức quý, vòng tay, cũng luôn tồn tại cái làm thành mặt nhẫn. Du Thanh Chủng lục sắc rõ ràng nhưng không thuần, chứa thành phần màu xám, màu lam, bởi vậy tương đối nặng nề, không đủ tiên diễm.

17. BA SƠN NGỌC PHỈ THUÝ

Ngọc Ba Sơn “Ngọc Ba Sơn” nguyên thạch là một loại tinh thể thô to, kết cấu xốp, nước khô, đế kém “Gạch liệu”, nhưng sắc tố tương đối phong phú, có tím nhạt, xanh lục nhạt, xanh lục hoặc lam xám, là một loại phẩm trật hơi thấp, chứa amphibole, natri fenspat và các khoáng vật đặc thù khác của phỉ thúy.

18. PHỈ THUÝ KIỀN BẠCH CHỦNG

Phỉ Thúy Kiền Bạch Chủng là phỉ thúy có tính thô, độ trong suốt không tốt, white color hoặc màu xám trắng nhạt. Chuyên Viên phỉ thúy đánh giá và nhận định nó là: Loại thô, nước khô, không nhuận. Nó là loại vô sắc hoặc sắc nhạt, bằng mắt thường có thể thấy được danh giới giữa các tinh thể, do hiệ tượng kết cấu thô ráp, giá trị sử dụng và thưởng thức thấp, là một loại phỉ thúy cấp bậc thấp.

19. PHỈ THÚY MỰC DỤC (MẶC THUÝ)

Mặc Thúy thoạt nhìn phát ra ánh đen, rất dễ khiến người ta ngộ nhận là Mặc Ngọc trong Ngọc Độc Sơn hoặc những thứ bảo ngọc hắc sắc khác, nhưng khi quan sát ánh sáng xuyên qua, hiện lên trạng thái bán trong suốt, mà trong hắc sắc lại sở hữu ánh xanh biếc, đặc biệt quan trọng lát cắt mỏng của Mặc Thúy, lúc ánh sáng xuyên qua sắc tố rất đẹp. Người Miến Điện dùng “Bóng hình tình nhân” để hình dung jadeite màu đen, người Trung Quốc thì dùng tên khác là “Mặc Thúy”.

20. THIẾT LONG SINH THUÝ

Thiết Long Sinh ngọc kiện đầy màu xanh. Tài nguyên khoáng sán này được phát hiện vào năm 90, năm 94 công khai khai thác, năm 2000 đã gần như khô kiệt, do đó tỉ lệ Thiết Long Sinh tốt trên thị trường rất thưa thớt.

THUẬT NGỮ ĐÁNH GIÁ “PHỈ THUÝ”

Nhận định và đánh giá phỉ thúy có những thuật ngữ như “Địa”,“Hảo thủy”,“Thúy hảo”. “Địa” chỉ sắc tố khác trong phỉ thúy, ngọc thiếu xanh phần đông là thượng phẩm; “Hảo thủy” chỉ tính chất mịn màng trơn nhẵn của phỉ thúy, thông thấu trong suốt, óng ánh trọng thể, ánh sáng xanh hài hòa, cũng xưng là:

“Tiếu” (thanh tú, xinh xắn)

“Thủy soa” (nước xấu)

“Thúy hảo” (nước đẹp) là hòa hợp của bốn chữ “nùng, dương, chính, hòa”

“Nùng” là chỉ đậm mà không đạm, như cây sồi xanh sau mưa

“Dương” Là chỉ tiên diễm sáng ngời, “Chính” chỉ vô tạp sắc, tà sắc lộn lạo, “Hòa” Là chỉ màu xanh đều đặn không phân chia đậm nhạt, trái lại gọi là “đạm, âm, tà, hoa”.

Ba, địa tử của phỉ thúy (địa tử hay còn gọi tắt là ‘địa’ hoặc ‘để’ là để chỉ màu nền ngoài màu xanh ra, hiểu theo nghĩa khác nó là ‘màu lót’ ấy).

1. Thủy tinh địa – hoàn toàn trong suốt, trong suốt sáng bóng. Độ trong suốt của phỉ thúy khác với bảo thạch. Vòng tay có thủy tinh địa tốt nhìn qua trong suốt như thủy tinh, không có tạp chất.

2. Băng địa – trong suốt kém băng nhưng có kết cấu giống băng, tuy sáng rực nhưng bên trong như có một tầng sương, giống như nước sạch ngừng hoạt động, ngưng kết.

3. Thủy địa – trong như nước, trong suốt sáng bóng. Tương tự với Thủy Tinh địa, nhưng có chút ít tạp chất.

4. Đản Thanh địa – tính chất giống như trứng gà xanh hay là trứng gà mới nở, trong suốt sáng bóng. Bán trong suốt, nhưng có vẻ tinh khiết, vô tạp chất.

5. Tị Thế địa – tính chất giống như nước mũi xanh, trong suốt sáng bóng. Bán trong suốt, nhưng có vẻ tinh khiết, chút ít tạp chất.

6. Thanh Thủy địa – tính chất trong suốt, nhưng phiếm màu xanh lục giống màu xanh của nước, là vì nhiễm kiềm, không bằng Thủy địa.

7. Hôi Thủy địa – tính chất bán trong suốt, nhưng phiếm màu xám. Vì có màu xám, nên chất lượng sản phẩm và dịch vụ kém hơn so với Thanh Thủy địa.

8. Tử Thủy địa – tính chất bán trong suốt, nhưng phiếm chút màu tím. Khác với Tử La Lan ở cường độ trong suốt, trên thực tế là Tử La Lan bán trong suốt.

9. Hồn Thủy địa – tính chất bán trong suốt, giống như nước đục. Độ trong suốt kém Thủy địa.

10. Tế Bạch địa- bán trong suốt, nhẵn nhụi, white color. Nếu độ sáng tốt, cũng là vật liệu tốt để chạm khắc ngọc.

11. Bạch Sa địa – bán trong suốt, có tính cát, white color. Không nhẵn nhụi bằng Tế Bạch địa.

12. Hôi Sa địa- bán trong suốt, có sa tính, màu xám. Không nhẵn nhụi hôi sắc Bạch Sa địa.

13. Đậu Thanh địa- bán trong suốt, màu xanh đậu. Trên thực tế là loại màu xanh đậu bán trong suốt.

14. Tử Hoa địa – bán trong suốt, có màu hoa tím không đều. Là màu Tử La Lan không đều.

15. Thanh Hoa địa – bán trong suốt tới đục, có đường văn đá màu xanh. Tính chất không đều đặn, chỉ thích hợp làm chạm ngọc.

16. Bạch Hoa địa – bán trong suốt tới đục, chất thô ráp cũng luôn tồn tại đường văn đá.

17. Từ địa – bán trong suốt tới đục, white color.

18. Kiền Bạch địa – đục, white color.

19. Tháo Bạch địa – đục, thô ráp, white color.

20. Tháo Hôi địa – đục, thô ráp, màu xám.

21. Cẩu Thỉ địa – nâu, hắc nâu.( Ruby stone )

PHÂN CẤP “PHỈ THUÝ”

– Đặc cấp: Sắc diễm lục [sắc ngọc lục bảo], màu xanh táo, thủy tinh [ bán trong suốt, tính chất nhẵn nhụi ], đều đặn tiên diễm, không tạp chất, không vết rạn.

– Thương phẩm trật: Sắc xanh lục, Du Thanh địa, hơi trong suốt, pha tạp với màu ngọc lục bảo bán trong suốt, có những đường gân mảnh và lấm tấm xanh.

– Thông thường cấp: màu sen, màu xanh lục, màu xanh lục nhạt, white color nhẵn nhụi, ít trong suốt. Phỉ thúy không trong suốt, thường ngày chỉ làm vật liệu ngọc cho trang sức quý.

CÁCH LỰA CHỌN VÀ ĐÁNH GIÁ PHỈ THUÝ

Jadeite phẩm chất thượng đẳng được gọi là phỉ thúy, sắc tố, độ trong, đều đặn, hình dáng, gõ là phương pháp người thường ngày xem xét hoặc đánh giá và nhận định ngọc thạch, cũng đem ngọc thạch chia làm: các cấp bậc như Thủy Tinh Chủng, thâm sắc Lão Khanh, Lão Khanh, Kim Ti, Du Thanh, Đậu Thanh, Hoa Thanh, Qua Thanh. Trong số đó lấy phỉ thúy Thủy Tinh Chủng là thượng phẩm, mà hàm lượng nước đặc biệt quan trọng cao, độ trong suốt tốt gọi là Băng Chủng, nói theo cách khác là trân phẩm trong Thủy Tinh Chủng.

Xem Thêm : FORGIVE Tiếng anh là gì – trong Tiếng anh Dịch

Đại phòng ban người mua vòng ngọc có nhẽ đều sở hữu kinh nghiệm này, còn thương gia sẽ gõ vào mặt vòng ngọc, nghe thử xem âm thanh có thanh thúy không chứa tạp chất không, mà âm thanh thanh thúy trầm bổng phản hồi lại tức là tốt. Làm như vậy tức là muốn chứng minh ngọc thạch kết tinh chặt chẽ tính chất tốt mà lại không có vết rạn.

1. Màu xanh của phỉ thúy: càng xanh non thì sẽ càng giá trị.

2. Độ trong suốt: khối hệ thống tinh thể bên trong jadeite chặt chẽ thì tính chất tốt hơn, Từ đó độ trong suốt cũng cao, tất cả chúng ta nói: Thủy Tinh Chủng đấy là loại jadeite có độ trong suốt cao, do đó bản thân ngọc thạch ngậm nhiều crom thì hình thành Phỉ Thúy Băng Chủng, giá trị xa xỉ mà lại khó cầu.

3. Sắc tố đều: ngoại trừ sắc xanh non và độ trong suốt, còn phải có sắc thái đều đặn mới là thượng phẩm.

4. Tỳ vết: phải lưu ý không có vết rạn, lấm tấm…, bất kỳ tỳ vết nào đều tác động đến phẩm chất jadeite.

5. Hình dạng: đại phần đông mặt nhẫn phỉ thúy đều là hình trứng, đến mức mà hình dạng khác chẳng có bao nhiêu loại, hình dạng tốt xấu, cùng đẹp đẽ khi đối chiếu với giá cả ngọc thạch có tác động.

6. Chạm trổ: trạm khắc đồ trang sức quý công phu tốt hay kém và ý nghĩa tượng trưng đều tác động đến giá cả.

7. Lớn nhỏ, độ dày: phẩm chất ngọc thạch tương đương thì đương nhiên lấy lớn và dày làm cách so giá cả.

8. Sáng bóng: Trừ bỏ các điều kiện kèm theo kể trên, sáng bóng còn phải tươi đẹp, không thể u ám.

MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý

“Chủng” của phỉ thúy là chỉ kết cấu và kết cấu của phỉ thúy. Là tiêu chí trọng yếu cho chất lượng sản phẩm và dịch vụ phỉ thúy.

Phỉ thúy Tân “Chủng” còn gọi là Tân Khanh, Tân Hán…, kết cấu xốp, thô và độ dày không đồng đều, hàm lượng tạp chất khoáng vật nhiều, đường rạn và vết rạn nhỏ lộ rõ, nhưng không nhất định là độ trong suốt sẽ kém, tỉ trọng độ cứng cũng luôn tồn tại giảm xuống.

Phỉ thúy Lão “Chủng” còn gọi Lão Khanh, Lão Hán…, kết cấu nhẵn nhụi chặt chẽ, kích thước hạt mịn đều đặn, vết rạn nhỏ không lộ rõ, tỉ trọng độ cứng rất cao, là phỉ thúy chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn. Nhưng không nhất định độ trong suốt tốt. Phỉ Thúy Tân Lão Chủng xen kẽ phỉ thúy Tân Chủng và Lão Chủng, là tàn tích ở triền núi tại nơi có phỉ thúy, là phỉ thúy chưa trải qua tự nhiên di dời, hoặc tự nhiên vận chuyển với khoảng tầm cách ngắn. Phỉ Thúy Tân Chủng là vật liệu chế tạo phỉ thúy loại B.

Hàm nghĩa “Địa” của phỉ thúy là mức độ kiền tịnh của phòng ban phía bên ngoài màu xanh lục gần kề với màu xanh lục của phỉ thúy và thủy (độ trong suốt) cùng mức độ hài hòa giữa các sắc tố, lấy “Chủng”, “Thủy”, “Sắc” làm nổi trội quan hệ lẫn nhau. Dân gian xưng “Địa” là “Địa Trương” hoặc “Để Chướng”… Thúy (màu xanh) và phần khác Thúy ra (màu còn sót lại) phải cân đối, như Thúy tốt phải xanh phối phù hợp với Thủy của phần còn sót lại của Thúy, mới làm nổi trội sự phối hợp, nếu Thúy rất tốt nhưng phần còn sót lại ngoài Thúy ra Thủy lại kém tạp chất bẩn sắc nhiều, gọi là “Sắc rất kém”.

“Thủy” và “Chủng” của Thúy phải hài hòa, nếu “Chủng” sắc màu già dặn rất tốt, Thủy cũng tốt, sắc tố tạp chất ít, phụ trợ lẫn nhau, sẽ mãnh liệt làm nổi trội ra tình lệ (vẻ đẹp) của phỉ thúy, nâng cao giá trị.

Kết cấu của “Địa” phải nhẵn nhụi, sắc thái phải đều đặn, sắc tố tạp chất ít, có độ trong suốt nhất định, chiếu ứng lẫn nhau mới có thể xưng là “Địa” đẹp. “Địa” đẹp được gọi là Thủy Tinh địa, Nhu Hóa địa, Đản Thanh địa. “Địa” không tốt gọi là Hôi Thạch địa, Cẩu Thỉ địa …. Phỉ thúy có Thủy không tốt gọi là “Để Kiền”.

“Thủy” của phỉ thúy là chỉ độ trong suốt của nó, còn gọi là thế nước. Thủy của phỉ thúy và kết cấu kết cấu của phỉ thúy có liên quan, nói cách khác có liên quan đến “Chủng”. Còn liên quan đến hàm lượng tạp chất, “Chủng” Lão, tạp chất ít, kích thước hạt mịn đều đặn, độ tinh thuần cao, là phỉ thúy thủy tốt.

Jadeite: một loại chất có nhiều trong phỉ thúy hay còn dùng để làm chỉ phỉ thúy, loại‘ngọc cứng’ thích hợp để làm đồ trang sức quý, hợp mồ hôi càng đeo càng đẹp.

CÁC ĐẶC TÍNH CỦA NGỌC

Tính THUÝ

Tính thúy là tiêu chí ngọc phỉ thúy vốn có, giới đá quý gọi là “xanh cánh ruồi”, “sao cát”. Các ngọc thạch màu xanh khác đều không có tính thúy, vì vậy nó là đặc trưng để nhận diện ngọc phỉ thúy. Thật ra tính thúy chỉ là mặt phát ra ánh sáng dạng phiến của không ít khoáng vật tạo thành trong ngọc phỉ thúy. Khoáng vật chủ yếu cấu thành ngọc bích là NaAl(Si2O6), thuộc tinh hệ trụ thẳng nghiêng. Thông thường, có dạng trụ nghiêng, trụ bán nghiêng, hoặc dạng hạt không theo quy tắc, có song tinh bình hành (001) và song tinh đơn, song tinh mảnh (100), song tinh tách (110). Vì vậy, trong kết cấu xen kẽ dạng vằn thô và kết cấu khảm dạng hạt được tạo nên từ những khoáng vật này, có thể thấy mặt phân tích và song tinh đấy là “tính thúy”. Nhưng “tính thúy” không phải là thứ có thể nhìn thấy bằng mắt thường trong tất cả những chủng loại ngọc phỉ thúy, như không nhìn thấy “tính thúy” trong kết cấu xen kẽ dạng đốm siêu nhỏ và kết cấu khảm dạng hạt siêu nhỏ. Bởi vì, mặt song tinh và mặt phân tích quả nhỏ, mắt thằng không nhìn thấy. Như ngọc phỉ thúy dạng pha lê và ngọc phỉ thúy dạng bằng đều không nhìn thấy tính thúy.

Thủy đầu

Thủy đầu là độ trong suốt của ngọc phỉ thúy, độ trong suốt được biểu thị bằng độ dài hay ngắn, gọi là thủy đầu dài hay ngắn, gọi là “thủy đầu dài” hoặc “thủy đầu ngắn”. Ngọc phỉ thúy thường là loại bán trong suốt hoặc không trong suốt. Kết cấu và chủng loại khoáng vật, quan hệ tỷ lệ… có tác động lớn đến độ trong suốt. Ngọc phỉ thúy có độ trong suốt cao thường có kết cấu milonitic – siêu milonitic, dưới tác dụng của lực, cho kết quả kết tinh thành hạt khoáng vật. Cũng dưới tác dụng lực, hạt khoáng vật một mặt trở thành nhỏ hơn, song song sắp xếp dài ra theo phương hướng trụ, khiến cho cấu trúc đều, tính chất quang đãng học của đá theo phía chuẩn đơn tinh thể. Mặt khác, trong quá trình kết tinh lại, giữa các mặt ranh giới hình thành một lớp phi tinh chất, giảm thiểu sự khúc xạ và phản xạ chậm giữa các hạt, tăng cường hiệu ứng thấu quang đãng, hình thành độ trong suốt cao. Ngoài ra, ít nhiều trong các loại khoáng vật cấu thành nên ngọc phỉ thúy cũng tác động tới độ trong suốt, thành phần càng đơn nhất, độ trong suốt càng cao. Địa thế căn cứ vào thủy đầu của ngọc phỉ thúy với độ trong suốt của nó phân thành 5 loại là: Trong suốt, bán trong suốt, hơi trong suốt, kém trong suốt và không trong suốt.

Hoa thông

Hoa thông là thuật ngữ miêu tả vỏ phong hóa của vật liệu ngọc phỉ thúy, là các đường, đốm màu xanh trong ngọc phỉ thúy ở hình thái biểu hiện của vỏ phong hóa. Đó là địa thế căn cứ suy đoán quan trọng nhất khi đối chiếu với sắc tố. Sắc tố của hoa thông có độ đậm, nhạt với những hình thái khác nhau. Màu xanh của ngọc phỉ thúy phân loại chủ yếu có ba mô hình thái là dạng miếng, mạch và không rõ hình dạng, ở giữa còn tồn tại một số mô hình giao thoa. Do sự đậm nhạt, sắc điệu, hình thái phân loại của màu xanh tùy thuộc vào chủng loại, nồng độ và không gian phân loại của ion sắc tố quyết định. Chủng loại, nồng độ và không gian phân loại của ion sắc tố trong thời kì và không gian thành khoáng vật tương đối ổn định. Vì vậy, sắc tố và hình thái của hoa thông biểu suy bì ở một mức độ nào đó phản ánh sắc tố, hình dạng và quy luật phân loại của màu xanh bên trong. Song song là địa thế căn cứ quan trọng để suy đoán trạng thái màu xanh bên trong.

Mãng đới

Mãng đới là thuật ngữ miêu tả vỏ phong hóa của vật liệu ngọc phỉ thúy, chỉ đường sắc tố trong ngọc phỉ thúy ở hình thái biểu thị của vỏ phong hóa. Thông thường, phân loại trên mặt bằng vỏ phong hóa dưới dạng sợi nhỏ ngoằn ngoèo, trông giống như một con rắn cuộn tròn. Đây là địa thế căn cứ để suy đoán có sắc tố hay là không và trạng thái phân loại sắc tố. Hiện tượng lạ mãng đới là kết quả của hai loại tác dụng địa chất, một là sự việc phong hóa khác biệt; hai là tác dụng kết cấu vận động sau thời kỳ thành nham. Niên đại thành nham, khoáng của ngọc phỉ thúy hình thành nên sự khác biệt của kết cấu và thành phần. Chính điều này dẫn tới độ cứng khác nhau, trong quá trình phong hóa tạo ra sự phong hóa khác nhau. Những hạt nhỏ có kết cấu dày thường có khả năng phong hóa mạnh hơn so với những hạt thô có kết cấu lỏng lẻo, khả năng kháng phong hóa của phần màu xanh mạnh hơn so với phần không màu. Vì vậy, phần màu xanh trong kết cấu hạt nhỏ lồi lên, hình thành mãng đới.

Các sợi màu xanh của ngọc phỉ thúy phần lớn do kết quả cải tạo của kỳ sau. Trước nhất là ngọc nham cứng biến hình, nứt vỡ dưới tác dụng của lực, sau đó các dòng nhiệt ion màu xâm nhập vào bên trong, tiến hành trao đổi ion, hình thành nên sợi sắc tố. Vì vậy, sợi có màu thường là sợi nứt vỡ biến hình, dưới tác dụng của lực và nhiệt nóng sợi nứt vỡ tạo thành nếp nhăn và kết tinh lại. Hình thành một đường màu xanh ngọc bích ngoằn ngoèo, phản ánh trên vỏ phong hóa, trông giống như con rắn đang cuộn tròn, cũng vì thế nên gọi là mãng đới. Hình thái, sắc tố, hướng đi là tiêu chí quan trọng để suy đoán sự thay đổi của màu xanh ngọc phỉ thúy.

Nấm

Nấm là những vết màu đen, xám, xám nhạt với kích thước, hình dạng khác nhau trên mặt bằng ngọc phỉ thúy. Thành phần khoáng vật chủ yếu của nấm là glaocophan. Glaocophan (Na2Mg3Al2(Si4O11)2(OH)2) là một loại amphibole tính kiềm, thuộc tinh hệ đơn nghiêng, tinh thể dạng trụ ít thấy. Thông thường, là thể tập hợp dạng trụ, sợi, có màu xanh chàm hoặc xanh đen, glaocophan thường chạy xung quanh pyroxene, đặc biệt quan trọng khi đối chiếu với ngọc cứng có sự chuyển giao viền mép hoặc chuyển giao hoàn toàn. Thông thường, nấm hay có màu, nhưng song song nấm lại chuyển đổi màu, nấm đi cùng với màu xanh và sinh ra dựa vào màu xanh. Màu xanh ít nhiều quyết định bởi glaocophan, màu đen khi đối chiếu với sự chuyển giao của ngọc cứng, sự chuyển giao càng triệt để, khả năng tồn tại của màu xanh càng ít. Hình dạng của nấm gồm có dạng sợi, thấm nhuộm và dạng mảnh.

Sương

Sương là một thuật ngữ miêu tả đá phỉ thúy có lớp vỏ phong hóa, chỉ một lớp vật chất mờ dạng sương giữa lớp vỏ phong hóa với ngọc phỉ thúy bên trong. Sương trên thực tế là kết quả của tác dụng thoái biến chất, do sự giảm xuống của nhiệt độ (t) và sự tăng lên của sức ép. Khoáng vật tái sinh sinh trưởng xung quanh khoáng vật nguyên sinh. Những khoáng vật tái sinh này chủ yếu là albite nepheline.

Sương có độ dày và mỏng, sắc tố có white color, vàng, đen và đỏ. Sương có hay là không và sắc tố phản ánh những thông tin của đá, sự xuất hiện của sương là một dự báo của sắc tố phỉ thúy. Sương màu khác nhau có tác dụng phản ánh khác nhau. Thông thường, sương red color và màu vàng do hàm lượng sắt cao tạo nên, hàm lượng sắt cao lại khiến cho màu xanh của ngọc phỉ thúy trở thành tối hơn. Sương trắng biểu thị hàm lượng sắt không tốt, là ngọc thạch cứng tương đối tinh khiết, có thể cho ra màu xanh thực sự của ngọc phỉ thúy.

Loại

Loại là một thuật ngữ để đánh giá và nhận định chất lượng sản phẩm và dịch vụ của ngọc phỉ thúy, được phân thành loại già, già trẻ và trẻ. Nhân tố tác động đến loại của ngọc phỉ thúy gồm có: Khoáng vật tổ thành, sắc tố, kết cấu, độ trong suốt của ngọc phỉ thúy. Loại già là loại ngọc phỉ thúy có một số khoáng vật tổ thành đơn nhất, hạt khoáng vật nhỏ đều, kết cấu chặt chẽ, màu xanh tinh khiết, sắc tố phân loại đều, độ trong suốt cao, độ cứng lớn. Loại non trái lại với loại già, loại già trẻ trung gian giữa loại già và trẻ. Có người nhận định rằng, loại non ra đời muộn, còn ngọc phỉ thúy loại già ra đời tương đối sớm. Điều này là một nhận thức sai trái, thực ra tính chất già trẻ của loại là phản ánh sự cải tạo của ngọc phỉ thúy ở thời kỳ sau có hoàn toàn hay là không. Ngọc phỉ thúy có chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt là vì ngọc thạch cứng trải qua nhiều lần thành khoáng ở thời kỳ cuối tạo thành. Ngọc thạch cứng dưới tác dụng của động lực thời kỳ cuối xẩy ra biến , gồm có sự thay thế dòng nhiệt chứa ion crom, để hình thành nên ngọc phỉ thúy chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt có hạt khoáng vật nhỏ đều, thành phần đơn nhất, kết cấu chặt chẽ, độ cứng cao, sắc tố đều tươi tỉnh, có hiệu ứng quang đãng học tốt. Loại non là ngọc phỉ thúy không có những đặc trưng thành khoáng, thành nham giống như kể trên, loại non được khai thác ở mỏ nguyên sinh và cả mỏ ngoại sinh. Ngọc phỉ thúy loại già cũng thế, nhưng về tổng thể, tỷ lệ ngọc phỉ thúy loại già khai thác từ mỏ khoáng ngoại sinh lơn hơn một tí. Đó là vì những mỏ ngọc phỉ thúy trầm tích đá nham được tạo thành từ sự phong hóa vỡ vụn, vận chuyển. Một số đá phỉ thúy có kết cấu tương đối xốp bị vỡ vụn trong quá trình này, đá không thể tái sinh, phần còn sót lại chủ yếu là ngọc phỉ thúy loại già chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt, có kết cấu chặt chẽ, độ cứng lớn. Ngoài ra, mỏ ngọc phỉ thúy nguyên sinh có thể có những loại mang phẩm chất kém, chất lượng sản phẩm và dịch vụ ngọc ở phía phía trên mỏ tốt hơn so với ở phía dưới mỏ, phần trên đã biết thành tách rời phong hóa thành mỏ ngoại sinh. Vì vậy, ngọc phỉ thúy khai thác được trong các mỏ ngọc thuộc kỷ thứ tư và trong mỏ khoáng trầm tích ở các dòng sông hiện nay đều là ngọc phỉ thúy loại già có chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt. Còn những ngọc phỉ thúy đang khai thác trong các mỏ nguyên sinh chủ yếu là loại non.

1. 老坑翡翠 – Lão Khanh

2. 冰种翡翠 – Băng Chủng

3. 水种翡翠- Thủy Chủng

4. 紫罗兰翡翠 – Tử La Lan

5. 白底青翡翠 -Bạch Để Thanh

6. 花青翡翠 – Hoa Thanh

7. 红翡 – Hồng Phỉ

8. 黄棕翡 – Hoàng Tôn

9. 豆种翡翠 – Đậu Chủng

10. 芙蓉种翡翠 – Phù Dung

11. 马牙种翡翠 – Mã Nha

12. 藕粉种翡翠 – Ngẫu Phấn

13. 广片 – Nghiễm Phiến

14. 翠丝种翡翠 – Thúy Ti

15. 金丝 – Kim Ti

16. 油青翡翠 – Du Thanh

17. 巴山玉 – Ba Sơn Ngọc

18. 干白种翡翠 – Kiền Bạch

19. 墨翠 – Mặc Thúy

20. 铁龙生 – Thiết Long Sinh

Nguồn: Tài liệu được sưu tầm và tổng hợp từ nhiều nguồn. Ngoài các thông tin và hình ảnh trên còn rất nhiều tài liệu và hình ảnh khác về Phỉ Thuý mà Ruby Stone không thể đưa lên hết được nên tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo. Các bạn muốn hiểu thêm về Phỉ Thuý thì nên tìm hiểu thật kỹ, và trải nghiệm thực tế.

Chú thích thuật ngữ chuyên ngành:

Chủng là chủng loại.

Chạm ngọc – chạm trổ, điêu khắc ngọc.

You May Also Like

About the Author: v1000