Niết bàn là gì?

Chúng tôi rất vui mừng chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Niet ban la gi và hy vọng rằng nó sẽ hữu ích cho bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với các chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng rằng thông tin mà chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật những kiến thức mới nhất.

> Đức Phật dạy Pháp Niết bàn tức khắc

Bạn Đang Xem: Niết bàn là gì?

Niết bàn, theo tiếng Sanscrit là Nirvana, tiếng Pali là Nibhana. Học giả Đoàn Trung Còn giảng giải: Niết bàn là “cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự nhủ rằng mình chẳng còn luyến ái”, và theo lối triết tự thì: “Niết (Nir): thoát khỏi, Bàn hay Bànna (Vana): rừng, tức là thoát khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não”. Pháp sư Huyền Trang triết tự Niết bàn – Nirvana như sau: 1, Nir: thoát khỏi, ly khai; vana: dãy phố vòng vèo, quanh quẩn, thay đổi. Nirvana là ly khai dãy phố quanh quẩn, dịch chuyển (bứt vòng tử sinh luân hồi); 2, Nir: không; vana: tanh hôi, dơ bẩn, Nirvana là không tanh hôi, dơ bẩn (thanh tịnh, trong sạch); 3, Nir: xa lìa, đào thải; vana: rừng rậm, Nirvana là xa lìa rừng rậm (đào thải những phiền tạp của đời sống)..

Con người chỉ được giải thoát khi nào tắt dòng năng lượng, ngã ngũ quả báo luân hồi.

Mặc dù những cách hiểu này sẽ không đồng nhất song đều phải sở hữu chung một nghĩa cơ bản: Niết bàn là việc đoạn trừ dục vọng, dứt quả báo luân hồi, thanh tịnh tuyệt đối. Đó là việc ngưng đọng vĩnh cửu của không – thời kì trong cõi tâm linh sâu thẳm của con người. Như vậy, Niết bàn trong Phật giáo không phải là một cõi cực lạc có vị trí không – thời kì như thiên đường của Thiên Chúa giáo, mà là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thảnh thơi, yên tĩnh, sáng suốt, không vọng động, diệt ái dục, xoá bỏ vô minh, ngã ngũ mọi khổ đau, phiền não.

Khi nói tới vấn đề con người, phần lớn các tôn giáo đều thừa nhận con người dân có hai phần: phần xác và phần hồn; phần xác thì tồn tại tạm thời còn phần hồn thì vĩnh cửu nên sau khoản thời gian thể xác bị huỷ hoại, vong linh phải ở nơi nào đó để đầu thai vào trong 1 thể xác mới, tiếp tục cuộc sống mới. Duy nhất có một tôn giáo – triết học Phật giáo không thừa nhận có vong linh bất tử, chính vì cũng không cần có một không gian địa lý cho vong linh ngụ cư. Đích của giải thoát trong Phật giáo không phải là lên Thiên đường, trở về với Chúa mà là việc tận diệt cái cá thể đầy những thèm muốn dục vọng với sự u tối của kiếp người để đạt tới Niết bàn.

Có người hỏi Phật: Sau khi chết, người giác ngộ sẽ đi về đâu? Phật sai người ấy lượm củi khô, nhóm lửa. Càng nhiều củi, lửa càng cháy mạnh, khi không bỏ thêm củi nữa thì đám lửa lụi tàn dần.

Có người hỏi Phật: Sau lúc chết, người giác ngộ sẽ đi về đâu? Phật sai người ấy lượm củi khô, nhóm lửa. Càng nhiều củi, lửa càng cháy mạnh, khi không bỏ thêm củi nữa thì ngọn lửa lụi tàn dần.

Thực ra, khái niệm Niết bàn không phải là sản phẩm riêng của Phật giáo. Kinh Upanishad trong Ấn Độ cổ đại đã sử dụng khái niệm này để chỉ trạng thái hoà nhập của vong linh thành viên (Atman) vào với vong linh vũ trụ (Brahman), của tiểu ngã vào với đại ngã. Ở đây, Niết bàn được đồng nhất với vong linh vũ trụ Brahman. Tới Phật giáo, khái niệm Niết bàn mang một nội dung mới mẻ và độc đáo hơn so với khái niệm Niết bàn trong Upanishad.

Xem Thêm : Ý Nghĩa Hệ Số Xác Định R2 Là Gì ? Định Nghĩa, Ví Dụ, Giải Thích

Kinh Phật nói ra làm sao về Niết bàn? Đã nhiều lần học trò của Phật hỏi ông về khái niệm này. Ông thường tránh không trả lời hoặc đáp rằng: “Cái gì ta chưa bộc lộ sẽ không còn bao giờ được bộc lộ”. Có gì kín đáo trong khái niệm trừu tượng, siêu nghiệm này? Không thể nói về Niết bàn bằng ngôn từ được. Ngôn từ sẽ trơn trượt, bất khả thuyết về cái bản thể tuyệt đối ấy. Trong Ngũ bộ kinh, có tới 32 từ có nghĩa tương đương với Niết bàn như: “đáo bỉ ngạn” (bờ bên kia), “đích cao quý”, “hoàn thành”, “lý lẽ”, “đăng minh”, “an lạc”, “giải thoát”… Đặc biệt quan trọng, trong Kinh Niết bàn, khái niệm này đã được đề cập bằng tiếng nói phủ định: “vô sinh”, “khổ diệt”, “vô minh diệt”, “ái diệt”, “vô uý”, “vô tác”, “vô ám”, “vô ngại”, “vô xuất”…

Phật mô tả về Niết bàn: “Sự tiêu tan của dục vọng là Niết bàn, “Sự im bặt của mọi sự vật bị giới hạn, sự dứt bỏ mọi xấu xa, sự diệt dục vọng, sự giải thoát, chấm dứt, Niết bàn”, “Diệt hẳn, mát mẻ, dứt bặt, gọi là đã lìa tất cả các thủ, ái tận, vô dục, tịch tĩnh, Niết bàn”...

Phật mô tả về Niết bàn: “Sự tiêu tán của dục vọng là Niết bàn, “Sự im bặt của mọi sự vật bị giới hạn, sự dứt bỏ mọi xấu xa, sự diệt dục vọng, sự giải thoát, ngã ngũ, Niết bàn”, “Diệt hẳn, mát mẻ, dứt bặt, gọi là đã lìa tất cả những thủ, ái tận, vô dục, tịch tĩnh, Niết bàn”…

Trong lôgíc học và tiếng nói học, cách khái niệm thường là quy một khái niệm nhỏ vào trong 1 khái niệm to ra nhiều thêm rồi chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của nó (Khái niệm qua giống gần gụi và khác biệt về loài). Chẳng hạn, muốn khái niệm về “tam giác đều”, trước hết phải quy về khái niệm “tam giác”, rồi sau đó chỉ ra đặc điểm riêng của tam giác đều để phân biệt với những loại tam giác khác (có ba cạnh hoặc ba góc bằng nhau). Tuy nhiên, với những khái niệm rộng, không còn khái niệm nào rộng hơn nữa (phạm trù) thì có một cách khái niệm độc đáo là đặt khái niệm đó trong quan hệ với khái niệm đối lập.

Trong triết học, có những phạm trù đã được khái niệm Theo phong cách này (phạm trù vật chất,…). Trong giáo lý nguyên thuỷ, Phật đã sử dụng cách khái niệm độc đáo này, đó là đem đối lập Niết bàn với thế giới thực tế. Nếu thế giới thực tế là khổ thì Niết bàn là “khổ diệt”, nếu thế giới thực tế là “bờ bên này (bỉ ngạn) thì Niết bàn là “bờ bên kia” (đáo bỉ ngạn), thế giới thực tế là mê lầm, không sáng suốt (“vô minh”) thì Niết bàn là sáng suốt (“vô minh diệt”)… Có thể tìm thấy rất nhiều đoạn trong kinh Phật mô tả về Niết bàn: “Sự tiêu tán của dục vọng là Niết bàn, “Sự im bặt của mọi sự vật bị giới hạn, sự dứt bỏ mọi xấu xa, sự diệt dục vọng, sự giải thoát, ngã ngũ, Niết bàn”, “Diệt hẳn, mát mẻ, dứt bặt, gọi là đã lìa tất cả những thủ, ái tận, vô dục, tịch tĩnh, Niết bàn”, “Đấy là việc ngã ngũ rốt ráo của chính dục vọng, vứt bỏ nó, thoát khỏi nó, dứt khỏi nó”. Phật ví sự tiếp nối giữa các đời trong vòng luân hồi như sự cháy tiếp nối của tương đối nhiều cây nến. Cây nến này tàn, cây nến khác lại được thắp lên. Sức nóng hay năng lượng của cây nến cũ đã truyền sang cây nến mới. Giống như vậy, năng lượng của nghiệp truyền qua các đời. Con người chỉ được giải thoát khi nào tắt dòng năng lượng, ngã ngũ quả báo luân hồi.

Niết bàn là bản thể tuyệt đối với đặc tính thường - lạc - ngã - tịnh, trái ngược với vô thường - khổ - vô ngã - bất tịnh của thế giới thực tại.

Niết bàn là bản thể tuyệt so với đặc tính thường – lạc – ngã – tịnh, trái ngược với vô thường – khổ – vô ngã – bất tịnh của thế giới thực tế.

Có người hỏi Phật: Sau lúc chết, người giác ngộ sẽ đi về đâu? Phật sai người ấy lượm củi khô, nhóm lửa. Càng nhiều củi, lửa càng cháy mạnh, khi không bỏ thêm củi nữa thì ngọn lửa lụi tàn dần. Phật hỏi: “Lửa đi về đâu?”, “Không! Nó chỉ tắt”. Phật nói rằng, đó đây chính là điều xẩy ra cho những người giác ngộ. Dục vọng là nhiên liệu cho ngọn lửa cháy, truyền năng lượng qua các kiếp luân hồi triền miên. Nếu không nuôi dưỡng ngọn lửa đó nữa, tức thị không còn dục vọng, nó sẽ lụi tàn. Khi đó, Niết bàn được hiểu như sự thanh lương, mát mẻ.

Thỉnh thoảng, Phật nói tới Niết bàn như thể cái không sinh, không tăng trưởng và không giới hạn. Trong Kinh Trung bộ, Niết bàn được đồng nhất với lý lẽ tuyệt đối, vượt khỏi những ý niệm nhị nguyên, tương đối.

Về thực chất, Niết bàn trong Phật giáo là một khái niệm phi thời kì, phi không gian, vô định về mọi mặt, không có điểm khởi đầu và cũng không có kết quả cuối cùng thúc. Vậy, có thể tìm thấy Niết bàn ở đâu khi Niết bàn không ở trong một không – thời kì cụ thể? Phật trả lời rằng, có thể tìm thấy Niết bàn không phải ở nơi tận cùng của thế giới mà ở ngay trong tấm thân một thước mấy của con người.

Thoát khỏi cái bản ngã là đạt tới Niết bàn, nếu con người còn chấp ngã thì sẽ không thoát khỏi những khổ đau nhân thế.

Thoát khỏi cái bản ngã là đạt tới Niết bàn, nếu con người còn chấp ngã thì sẽ không còn thoát khỏi những khổ đau nhân thế.

Xem Thêm : File Corel là gì? Cách chuyển File CDR sang định dạng khác

Theo Phật, chính tư duy sai trái đã ngăn cách không cho con người thấy được Niết bàn trong thực tế. Chính vì, để đạt được Niết bàn, trước hết, con người phải khắc phục những sai trái trong nhận thức của mình, thoát khỏi vô minh, giác ngộ được lẽ “vô thường” và “vô ngã”. Niết bàn là “vô ngã”: “Niết bàn là cái gì tuyệt đối không dung ngã. Niết bàn không có hạn lượng, không có xứ sở, vì Niết bàn là vô tướng – vô tướng nên khó vào. Muốn vào Niết bàn ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tóc tơ, nên ta không thể mang theo tư trang hành lý mà hy vọng vào được Niết bàn. Cái thân dường như không mang theo được, mặc cả ý niệm về tôi, về ta cũng không thể mang theo được. Cái ta càng to thì sẽ càng xa Niết bàn. Nên biết rằng: hễ hữu ngã là luân hồi mà vô ngã là Niết bàn”.

Thoát khỏi cái bản ngã là đạt tới Niết bàn, nếu con người còn chấp ngã thì sẽ không còn thoát khỏi những khổ đau nhân thế. Niết bàn là bản thể tuyệt so với đặc tính thường – lạc – ngã – tịnh, trái ngược với vô thường – khổ – vô ngã – bất tịnh của thế giới thực tế. Walpola Rahula đã phân tích khá thâm thúy trạng thái này: “Người đã chứng ngộ lý lẽ, Niết bàn là người niềm sung sướng nhất trần gian. Người ấy đã thoát khỏi mọi tự ti và ám ảnh, mọi phiền não và lo lắng làm cho những người dân khác bị điêu đứng. Sức khoẻ và ý thức của người ấy thật hoàn toàn. Họ không hối tiếc quá khứ cũng không mộng mơ về tương lai. Họ sống hoàn toàn trong ngày nay. Chính vì họ thưởng thức và vui hưởng sự vật một cách thuần tuý, không dự phóng. Họ vui vẻ, hoan hỷ thưởng thức sự sống tinh khiết, sáu giác quan khinh an, không ngại lắng, mặc nhiên và thanh thoát.

Vô dư Niết bàn là Niết bàn tuyệt đối, Niết bàn xuất thế hay còn gọi là Đại Niết bàn.

Vô dư Niết bàn là Niết bàn tuyệt đối, Niết bàn xuất thế hay còn gọi là Đại Niết bàn.

Vì họ giải thoát khỏi dục vọng ích kỷ, thù hận, vô minh, tự phụ ngã mạn và trên cả những thứ bất tịnh xấu xa ấy. Họ trong sạch, từ hoà, đầy lòng thương bao quát, từ bi, tử tế, thiện cảm và khoan dung. Họ phục vụ kẻ khác một cách trong sạch nhất, vì không còn nghĩ gì về tay. Họ không tìm kiếm chác, tích chứa gì trong cả những gì thuộc địa hạt tâm linh, bởi họ thoát thoát khỏi cái tôi và lòng khát khao trở thành…”.

Nhìn chung, Phật giáo thường đề cập tới hai hình thức cơ bản của Niết Bàn: Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn. Hữu dư Niết bàn là Niết bàn tương đối, Niết bàn tại thế: tức thị, Niết bàn đạt được khi thể xác vẫn còn tồn tại nhưng tâm đã thoát khỏi vòng luân hồi vô tận. Người đó tuy còn sống nhưng mọi phiền não đã được diệt, ba nọc độc tham – sân – si đã tiêu trừ. Bản thân Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đạt tới Hữu dư Niết bàn khi ông 35 tuổi, lúc nhìn thấy sao mai mọc, sau 49 ngày ngồi dưới gốc cây người yêu đề để chiêm nghiệm về lý lẽ. 45 năm còn sót lại của cuộc đời, mặc dầu tâm đã xoá được vô minh, phiền não song ông vẫn không thoát khỏi sinh – lão – bệnh – tử.

Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn đều chỉ về trạng thái tâm linh thanh tịnh tuyệt đối, tự do tự tại của con người.

Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn đều chỉ về trạng thái tâm linh thanh tịnh tuyệt đối, tự do tự tại của con người.

Vô dư Niết bàn là Niết bàn tuyệt đối, Niết bàn xuất thế hay còn gọi là Đại Niết bàn. Kinh Bản sinh giảng giải: “Thế nào là Vô dư Niết bàn?… Đó là trạng thái đã chứng được La Hán, hết sạch các phiền não, phạm hạnh đã được thành lập, việc cần làm đã làm đủ, đã vứt bỏ mọi gánh nặng, đã chứng tự nghĩa, đã khéo giải thoát, đã được biết khắp. Tất cả những điều cảm thụ hiện giờ đều không còn do nhân dẫn đến, không còn mong cầu, hy vọng cũng hết, rốt ráo tịch lặng, vĩnh viễn trong mát, ẩn lặng không hiện, chỉ y vào cái tĩnh mịch không lý luận, không thể nói rằng có, cũng không thể nói rằng không mà cũng không nhận định rằng chẳng có chẳng không”. Vô dư Niết bàn chỉ đạt ngưỡng được khi đã ngã ngũ sự tồn tại của thể xác.

Xét về mặt thực chất, Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn đều chỉ về trạng thái tâm linh thanh tịnh tuyệt đối, tự do tự tại của con người. Điểm khác biệt là ở vị trí, Niết bàn đó đạt được khi thân thể còn sống hay đã chết mà thôi.

You May Also Like

About the Author: v1000

tỷ lệ kèo trực tuyến manclub 789club