Ngự sử đài, cơ quan giám sát và phản biện

Chúng tôi rất vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Ngu su dai la gi và hy vọng rằng nó sẽ hữu ích cho bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với các chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng rằng thông tin mà chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật những kiến thức mới nhất.

Trong cơ cấu tổ chức quyền lực của nhiều triều đại phong kiến xưa có một cơ quan đặc biệt quan trọng gọi là Ngự sử đài. Ngự sử đài là cơ quan chuyên làm mướn việc giám sát ở triều đình, can gián nhà vua, đàn hặc các quan lại nhằm giữ gìn kỷ cương phép nước. Ngự sử đài được đưa ra lần trước tiên vào nămThiên Ứng Chính Bình thứ 19 (1250) dưới thời vua Trần Thái Tông. Phụ trách Ngự sử đài là các chức quan Ngự sử đại phu, Ngự sử trung tướng, Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Chủ thư thị ngự sử, Ngự sử trung tán. Sang đời Lê đặt thêm các chức Trung thừa, Phó trung thừa, Chủ bạ, Đô ngự sử, Phó đô ngự sử, Thiêm đô ngự sử.

Bạn Đang Xem: Ngự sử đài, cơ quan giám sát và phản biện

Xem Thêm : Collaborative Cost Management (CCM) – Góc nhìn mới trong tối ưu chi phí

Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460- 1497) trở về sau giảm bớt các chức, chỉ từ lại Đô ngự sử, Phó đô ngự sử, Thiêm đô ngự sử. Trong số đó Đô Ngự sử đứng đầu Ngự sử đài có hàm chánh tam phẩm, Phó đô ngự sử có hàm chánh tứ phẩm, và Thiêm đô ngự sử có hàm chánh ngũ phẩm ( theo Lê triều quan chế). Dưới ba chức này là các Giám sát ngự sử có hàm chánh cửu phẩm, đứng hàng cuối cùng trong bậc thang phẩm hàm . Ở các địa phương có những Giám sát ngự sử các đạo (như các tỉnh ngày này) cũng luôn tồn tại hàm cửu phẩm (theo Lê triều quan chế)

Những viên quan được chọn vào làm ở Ngự sử đài là những người dân cương trực, thẳng thắn, dám nói thẳng, nói thật, nhìn thẳng vào sự thực. Tất cả chúng ta biết rằng, việc vạch ra cái sai, cái xấu, cái cần phê phán của nhiều quan lại đồng liêu rất rất dễ gây thù, chuốc oán, nhất là so với các viên quan lại sở hữu vị thế lơn hơn mình, rất dễ gánh lấy hậu quả của sự việc đè nén, trù dập. Vạch cái sai của nhiều quan còn thế, vạch cái sai của nhiều bậc vua chúa quyền uy tối thượng thì còn nguy hiểm hơn nhiều, chẳng khác gì vuốt râu hùm. Vì nói thẳng, nói thật mà bị cất chức, bị đuổi về quê là chuyện không hiếm, bởi vì “ trung ngôn nghịch nhĩ”. Nhưng trách nhiệm của nhiều vị quan thao tác làm việc ở Ngự sử đài là phải nói, phải phản biện. Trước những lời nói, việc làm, những quyết định vi hiến ở triều đình, các quan thao tác làm việc ở Ngự sử đài không thể lặng im, cho qua. Bởi nếu như vậy thì chính các quan Ngự sử sẽ bị đàn hặc lại, vì không hoàn thành nhiệm vụ (vì anh ăn lương chỉ để đàn hặc). Vì vậy, cái “ghế” của quan Ngự sử thật khó “ngồi”. Thao tác làm việc ở Ngự sử đài có trách nhiệm lớn như vậy nhưng người đứng đầu cũng chỉ có hàm Tam phẩm, chưa bằng một vị Thượng thư lục bộ ( Thượng thư có hàm Tòng nhị phẩm- Theo Lê triều quan chế).

Đô sát viện thời Nguyễn được chính thức thành lập năm 1832, dưới thời trị vì của vua Minh Mạng. Trước đó, thời vua Gia Long, năm 1804 mới chỉ đặt các chức quan phụ trách công việc giám sát vô thượng là Đô ngự sử và Phó Đô ngự sử phụ trách ngự sử đài, tiền thân của Đô sát viện. Đến năm 1827 vua Minh Mạng đặt thêm các Cấp sự trung lục khoa và Giám sát ngự sử tại những đạo (các vùng địa phương). Đến năm 1832, Đô sát viện trở thành một cơ quan giám sát vô thượng với rất đầy đủ các quy chế kiểm sát những đơn vị hành chính TW, nhờ các lục khoa giám sát lục bộ và kiểm sát các địa phương, là giám sát ngự sử các đạo. Đô sát viện, là một cơ quan hội đồng, cùng với Đại lý tự (cơ quan xét xử vô thượng) và bộ Hình nằm trong Tam pháp ty, tức là khối hệ thống tư pháp của triều đình nhà Nguyễn. Trưởng quan Đô sát viện, cùng Trưởng quan Đại lý tự (Tự khanh), 6 Thượng thư lục bộ và Thông chính sứ ty hợp thành Cửu khanh của triều đình nhà Nguyễn. Đứng đầu Đô sát viện là 4 vị đại thần giữ các chức vụ sau:

Xem Thêm : RSM Là Gì? 10 Kỹ Năng Cần Có Của Một Regional Sales Manager

Tả Đô ngự sử và Hữu Đô ngự sử (tức là Trưởng quan Đô sát viện), hàm ngang với chức Thượng thư các bộ; Tả phó Đô ngự sử và Hữu phó Đô ngự sử, hàm ngang với Tham tri các bộ. Phía dưới bốn vị đại thần trên là Lục khoa và 16 vị Giám sát ngự sử 16 đạo. Các quan giám sát ngự sử các đạo hàm Chánh ngũ phẩm, gồm: Đạo Kinh kỳ, giám sát kinh đô Thừa Thiên Huế. Đạo Sơn Hưng Tuyên, giám sát ba tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang quẻ. Đạo Lạng Bình, giám sát hai tỉnh Tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Đạo Ninh Thái, giám sát hai tỉnh Tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên. Đạo Hải An, giám sát hai tỉnh Thành Phố Hải Dương, Quảng Yên. Đạo Định Yên, giám sát hai tỉnh Nam Đinh, Hưng Yên. Đạo Hà Ninh, giám sát hai tỉnh thủ đô, Tỉnh Ninh Bình. Đạo Thanh Hóa, giám sát tỉnh Thanh Hóa. Đạo An Tĩnh, giám sát hai tỉnh Nghệ An, TP Hà Tĩnh. Đạo Bình Trị, giám sát hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị. Đạo Nam Ngãi, giám sát hai tỉnh Quảng Nam, Tỉnh Quảng Ngãi. Đạo Bình Phú, giám sát hai tỉnh Tỉnh Bình Định, Phú Yên. Đạo Thuận Khánh, giám sát hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa. Đạo Định Biên, giám sát hai tỉnh Gia Định, Biên Hòa. Đạo Long Tường, giám sát hai tỉnh Vĩnh Long, Định Tường;. Đạo An Hà, giám sát hai tỉnh An Giang, Hà Tiên. Tại kinh thành, tất cả những bộ, nha ở cấp TW đều chịu sự giám sát của Lục khoa, gồm: Lại khoa, kiểm sát bộ Lại và Hàn lâm viện; Hộ khoa, kiểm sát bộ Hộ, phủ Nội vụ, Tào chính ty, Thương chính ty. Lễ khoa, kiểm sát bộ Lễ, Thái thường tự, Quang quẻ lộc tự, Quốc tử giám, Khâm thiên giám. Binh khoa, kiểm sát bộ Binh, Thái bộc tự, Kinh thành đề đốc, các kho vũ khí và thuốc sung. Hình khoa, kiểm sát bộ Hình và Đại lý tự. Công khoa, kiểm sát bộ Công, Vũ khố và Mộc thương.

Đứng đầu mỗi khoa là quan Cấp sự trung, điều hành công vụ của khoa đó. Các quan lại của nhiều khoa, đạo hoạt động độc lập rất cao và ý kiến tấu sớ của họ có thể được gửi thẳng lên Nhà vua mà không phải trình qua Trưởng quan phê duyệt. Ví dụ, khi vua Minh Mạng chầu trời, để tỏ lòng hiếu nghĩa, vua Thiệu Trị tổ chức việc tang lễ quá dài, gây ảnh hưởng tác động đến hoạt động thường nhật của quần chúng. #, quan giám sát ngự sử đạo Lạng Bình lúc đó là Doãn Khuê, dâng sớ trực tiếp can gián. Ngoài việc giám sát thường xuyên của Đô sát viện, triều đình còn thường cử những đoàn thanh tra xuống các địa phương, tại những điểm trung tâm về kinh tế tài chính (vùng mới khai khẩn), hoặc nơi vừa trải qua dịch bệnh, thiên tai, cuộc chiến tranh… xử lý công việc tại chỗ, gọi là chủ trương Kinh lược đại sứ. Nổi tiếng nhất là đoàn Kinh lược sứ của Thượng thư bộ Binh, Cơ mật viện đại thần Trương Đăng Quế, thanh tra toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ vào năm 1836, để lần trước tiên thiết lập khối hệ thống sổ sách địa chính của lục tỉnh.

Khi thành lập Đô sát viện, vua Minh Mạng đã quy định nhiệm vụ của cơ quan này như sau: … Trong số quan chức lớn bé, có ai lấn vượt ban thứ; nói năng ổn ào, uy nghi không nghiêm túc đều phải hặc. Hoàng thân quốc thích, các quan lớn nhỏ trong kinh hoặc ngoài trấn có việc gì không công minh, không giữ phép, dối trá, che chắn, chuyên quyền đều phải tham hặc. Các quan trong kinh ngoài trấn có thực trạng là thanh hoặc liêm, tốt hoặc xấu đều được chấp nhận phân biệt tâu lên các đại thần để cử và bổ nhiệm người và chương sớ các nha môn trong ngoài dâng lên hễ thấy không phải làm vì công tâm, đều phải hặc tâu. Thi Hương, thi Hội nếu có sự ngấm ngầm chạy vạy hối lộ, gửi gắm cũng phải hặc. Phàm các việc đã hặc tâu đều phải vạch rõ sự thực, không phải nghe hơi bắt bóng vì hiềm riêng mà làm bậy, bới chuyện… Nếu gặp những việc chậm trễ, trái phép, lẫn cẫn và những tệ hại do bọn nha lại gian xảo đổi trắng thay đen đều phải hặc rõ sự thực mà hặc

You May Also Like

About the Author: v1000

tỷ lệ kèo trực tuyến manclub 789club