Thuật ngữ kinh tế tài chính chính trị là một thuật ngữ không hề xa lạ khi đối chiếu với tất cả chúng ta. Các nhà kinh tế tài chính chính trị nghiên cứu phương pháp hoạt động của đa số lý thuyết kinh tế tài chính như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong thế giới thực. Về cơ bản, bất kỳ lý thuyết kinh tế tài chính nào thì cũng là một phương pháp luận được sử dụng như một phương tiện chỉ huy việc phân phối một lượng tài nguyên hữu hạn Theo phong cách có lợi cho số lượng thành viên lớn số 1. Nội dung bài viết ở chỗ này chúng tôi sẽ cung cấp thông tin tìm hiểu về kinh tế tài chính chính trị.
1. Kinh tế tài chính chính trị là gì?
Nguồn gốc của kinh tế tài chính chính trị như tất cả chúng ta biết ngày này bắt nguồn từ thế kỷ 18. Các học giả trong thời kỳ này đã nghiên cứu cách phân phối và quản lý tài sản giữa mọi người. Adam Smith, David Ricardo và John Stuart Mill được nhiều người xem như là những người dân khai sinh ra kinh tế tài chính học tân tiến. Nhưng họ tự gọi mình là nhà kinh tế tài chính chính trị, và Nguyên tắc kinh tế tài chính chính trị của Mill là văn bản cơ bản của môn học này từ khi xuất bản năm 1848 cho tới thời điểm cuối thế kỷ này. Những nhà lý thuyết thuở đầu này sẽ không thể quan niệm thế giới kinh tế tài chính và chính trị là tách biệt.
Nhưng thuật ngữ này có nhẽ phù thống nhất với nhà văn và nhà kinh tế tài chính người Pháp, Antoine de Montchrestien. Ông viết một cuốn sách mang tên “Traité de l’économie politique” vào năm 1615, trong đó ông xem xét nhu cầu sinh sản và tài sản phải được phân phối trên một quy mô hoàn toàn to thêm – không phải trong hộ gia đình như Aristotle đề xuất. Cuốn sách cũng phân tích quan hệ giữa kinh tế tài chính và chính trị với nhau.
Smith là một triết nhân, nhà kinh tế tài chính học và nhà văn, người thường được xem như là cha đẻ của kinh tế tài chính học và kinh tế tài chính chính trị học. Ông đã viết về chức năng của thị trường tự do tự kiểm soát và điều chỉnh trong cuốn sách trước tiên của mình, mang tên là “Lý thuyết về tình cảm đạo đức.” 6 Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, “Một cuộc điều tra về thực chất và nguyên nhân của việc giàu có của đa số quốc gia” (hoặc “Sự giàu có của đa số quốc gia”) đã hỗ trợ hình thành lý thuyết kinh tế tài chính cổ điển. Nó cũng được sử dụng làm nền tảng cho những nhà kinh tế tài chính học trong tương lai.
Mill đã phối hợp kinh tế tài chính học với triết học. Ông tin vào thuyết vị lợi – rằng những hành động dẫn đến thiện chí của con người là đúng và những hành động dẫn đến thống khổ là sai. vì lợi ích của người dân. Một số tác phẩm của ông, gồm có “Các nguyên tắc của kinh tế tài chính chính trị”, “Chủ nghĩa bất lợi” và Một mạng lưới hệ thống logic “đã đưa ông trở thành một trong những nhân vật quan trọng nhất trong chính trị và kinh tế tài chính.
Hai xu hướng phân chia chính trị khỏi phân tích kinh tế tài chính. Trước hết, các chính phủ nước nhà khai mạc giảm bớt sự kiểm soát trực tiếp của họ khi đối chiếu với nền kinh tế tài chính. Thứ hai, các hình thức chính trị khác nhau xuất hiện: Châu Âu đi từ cơ chế quân chủ gần như độc quyền sang các hình thức chính phủ nước nhà ngày càng mang tính đại diện thay mặt và rất đa dạng. Đến vào đầu thế kỷ 20, kinh tế tài chính học và khoa học chính trị được thành lập như những bộ môn riêng biệt.
Trong phần lớn thế kỷ 20, phòng ban này đã thống trị. Với cuộc Đại suy thoái và phá sản và các vấn đề phát triển, các vấn đề kinh tế tài chính thuần túy đã đủ làm các nhà kinh tế tài chính nản lòng. Song song, các vấn đề chính trị của thời đại — hai cuộc cuộc chiến tranh thế giới, sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản — nghiêm trọng đến mức cần được lưu ý riêng.
Tuy nhiên, đến trong khoảng thời gian 1970, rõ ràng là sự việc tách biệt giữa nghành kinh tế tài chính và chính trị đã trở nên sai lệch. Thập kỷ đó tận mắt chứng kiến sự sụp đổ của trật tự tiền tệ Bretton Woods, hai cú sốc giá dầu và lạm phát kinh tế đình trệ – tất cả đều làm nổi trội thực tế là các vấn đề kinh tế tài chính và chính trị gắn liền với nhau. Nền kinh tế tài chính hiện nay là chính trị cao, và phần lớn chính trị là về kinh tế tài chính.
Trong hơn 50 năm qua, kinh tế tài chính chính trị ngày càng trở thành nổi trội trong cả kinh tế tài chính và khoa học chính trị, trên ba phương diện:
Nó phân tích cách các lực lượng chính trị tác động đến nền kinh tế tài chính. Cử tri và các nhóm lợi ích có tác động mạnh mẽ đến hồ hết mọi chính sách kinh tế tài chính khả thi. Các nhà kinh tế tài chính chính trị nỗ lực xác định các nhóm có liên quan và lợi ích của họ, và phương pháp các thiết chế chính trị tác động đến tác động của họ khi đối chiếu với chính sách.
Nó đánh giá và nhận định nền kinh tế tài chính tác động đến chính trị thế nào. Các xu hướng kinh tế tài chính vĩ mô có thể xúc tiến hoặc hủy hoại thời cơ của người đương nhiệm. Ở Lever kinh tế tài chính vi mô hơn, các đặc điểm của tổ chức kinh tế tài chính hoặc hoạt động của đa số doanh nghiệp hoặc ngành cụ thể có thể có tác động đến thực chất và hướng hoạt động chính trị của họ.
Nó sử dụng các phương tiện của kinh tế tài chính học để nghiên cứu chính trị. Các chính trị gia có thể được xem như là tương tự như các tổ chức, với cử tri là người tiêu dùng, hoặc các chính phủ nước nhà là nhà cung cấp độc quyền sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ cho những khách hàng cấu thành. Các học giả mô hình hóa các tương tác kinh tế tài chính – chính trị để phát triển sự hiểu biết chặt chẽ hơn về mặt lý thuyết về các đặc điểm cơ bản xúc tiến chính trị.
Cả ba phương pháp này đều tác động thâm thúy đến cả những học giả và các nhà hoạch định chính sách. Và kinh tế tài chính chính trị có rất nhiều điều để cung cấp cho những nhà phân tích về phong thái xã hội hoạt động và những người dân muốn thay đổi xã hội.
Như vậy, tổng kết lại sở hữu thể hiểu kinh tế tài chính chính trị là một nhánh của khoa học xã hội nghiên cứu quan hệ hình thành giữa dân cư của một quốc gia và chính phủ nước nhà của quốc gia đó khi chính sách công được cho ra đời. Do đó, nó là kết quả của việc tương tác giữa chính trị và kinh tế tài chính và là cơ sở của cục môn khoa học xã hội.1
2. Các mô hình kinh tế tài chính chính trị:
Như đã đề cập ở trên, có một số mô hình kinh tế tài chính chính trị đáng lưu ý:
Chủ nghĩa xã hội: Quy mô kinh tế tài chính chính trị này xúc tiến ý tưởng rằng việc sinh sản và phân phối sản phẩm & hàng hóa và tài sản được duy trì và điều tiết bởi xã hội, chứ không phải là một nhóm người cụ thể. Cơ sở lý luận đằng sau điều này là bất kỳ thứ gì do xã hội sinh sản ra đều được thực hiện vì những người dân tham gia, bất kể vị thế, giàu có hay vị thế. Chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu thu hẹp khoảng chừng cách giữa người giàu và quyền lực, nơi một hoặc nhiều thành viên không có phần nhiều quyền lực và tài sản.
Chủ nghĩa tư bản: Lý thuyết này chủ trương lợi nhuận là động lực để thăng tiến. Nói một cách đơn giản, ý tưởng đằng sau chủ nghĩa tư bản là các thành viên tư nhân và các tác nhân khác được xúc tiến bởi lợi ích của chính họ — họ kiểm soát sinh sản và phân phối, định giá và tạo ra cung và cầu.
Chủ nghĩa cộng sản: Các thành viên thường nhầm lẫn chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa xã hội, nhưng có một sự khác biệt rõ ràng giữa hai lý thuyết này. Chủ nghĩa cộng sản là một lý thuyết được phát triển bởi Karl Marx, người cảm thấy rằng chủ nghĩa tư bản bị hạn chế và tạo ra sự phân hóa giàu nghèo lớn. Ông tin vào các nguồn lực được san sớt, gồm có tài sản, và việc sinh sản và phân phối nên được giám sát bởi chính phủ nước nhà.
Những người dân nghiên cứu kinh tế tài chính chính trị được gọi là nhà kinh tế tài chính chính trị. Nghiên cứu của họ thường liên quan đến việc kiểm tra cách chính sách công, tình hình chính trị và thiết chế chính trị tác động đến vị thế kinh tế tài chính và tương lai của một quốc gia thông qua lăng kính xã hội học, chính trị và kinh tế tài chính.
3. Các phương pháp tiếp cận kinh tế tài chính chính trị:
Kinh tế tài chính chính trị đã trở thành một ngành học của riêng nó trong trong khoảng thời gian gần đây. Nhiều học viện chuyên nghành lớn cung cấp nghiên cứu này như một phần của đa số khoa khoa học chính trị, kinh tế tài chính học và / hoặc xã hội học của họ.
Nghiên cứu của đa số nhà kinh tế tài chính chính trị được thực hiện nhằm xác định chính sách công tác động thế nào đến hành vi, năng suất và thương nghiệp. Phần lớn nghiên cứu của họ giúp họ xác định phương pháp phân phối tiền và quyền lực giữa mọi người và các nhóm khác nhau. Họ có thể thực hiện điều này thông qua việc nghiên cứu các nghành cụ thể như luật, chính trị quan liêu, hành vi lập pháp, sự giao thoa giữa chính phủ nước nhà và doanh nghiệp, và các quy định.
Nghiên cứu có thể được tiếp cận theo bất kỳ cách nào trong ba cách:
– Nghiên cứu liên ngành: Cách tiếp cận liên ngành dựa trên xã hội học, kinh tế tài chính học và khoa học chính trị.
– Kinh tế tài chính chính trị mới: Cách tiếp cận này được nghiên cứu như một tập hợp các hành động và niềm tin, song song tìm cách đưa ra các giả thiết rõ ràng dẫn đến những cuộc tranh luận chính trị về thị hiếu của xã hội.
– Kinh tế tài chính chính trị quốc tế: Còn được gọi là kinh tế tài chính chính trị toàn cầu, cách tiếp cận này phân tích mối liên hệ giữa kinh tế tài chính và quan hệ quốc tế. Nó rút ra từ nhiều nghành học thuật gồm có khoa học chính trị, kinh tế tài chính học, xã hội học, nghiên cứu văn hóa truyền thống và lịch sử vẻ vang.
4. Các ứng dụng tân tiến của kinh tế tài chính chính trị:
Các ứng dụng tân tiến của kinh tế tài chính chính trị nghiên cứu các khu công trình của đa số nhà triết học và kinh tế tài chính học đương thời hơn, ví dụ như Karl Marx.
Marx trở thành chán ghét chủ nghĩa tư bản nói chung. Ông tin rằng các thành viên phải chịu đựng dưới tầng lớp xã hội tập hợp, nơi một hoặc nhiều thành viên kiểm soát tỷ lệ tài sản to thêm. Theo những lý thuyết cộng sản, điều này sẽ bị xóa khỏi, được cho phép mọi người được sống đồng đẳng trong lúc nền kinh tế tài chính vận hành dựa trên khả năng và nhu cầu của mỗi bên tham gia. Dưới cơ chế cộng sản, các nguồn tài nguyên được kiểm soát và phân phối bởi chính phủ nước nhà.
Hồ hết mọi người nhầm lẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đúng là có một số điểm tương đồng – đáng lưu ý là cả hai đều gây căng thẳng thu hẹp khoảng chừng cách giàu nghèo, và xã hội nên làm giảm trạng thái cân bằng giữa mọi công dân. Nhưng có những khác biệt cố hữu giữa hai. Trong lúc các nguồn lực trong xã hội cộng sản được sở hữu và kiểm soát bởi chính phủ nước nhà, các thành viên trong xã hội xã hội chủ nghĩa nắm giữ tài sản. Người dân vẫn có thể mua sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ dưới chủ nghĩa xã hội, trong lúc những người dân sống trong xã hội cộng sản chủ nghĩa được chính phủ nước nhà cung cấp những nhu cầu cơ bản của họ.