Kỳ nam và Trầm hương

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Ki nam la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Phóng toLá và quả cây GióKỳ Nam và Trầm hương là sản phẩm đặc biệt quan trọng nằm trong lõi của cây Gió. Ở Campuchia, cây Gió mang tên là Can Krasna (Can, cannada: Trầm, Krasna: sẫm). Có nhẽ từ âm ấy mà mang tên khoa học bằng tiếng La tinh.

+ Tên khoa học : Aquilaria Crasna Pierre

Bạn Đang Xem: Kỳ nam và Trầm hương

+ Họ: Thymeleaceae

+ Bộ: Thyméales

+ Lớp: Song-tử-diệp

+ Ngành: Hiển hoa (bí tử)

Cây Gió là một loài đại mộc có thể cao 40-50 mét, vỏ màu xám có nhiều sợi có thể làm giấy được, gỗ mềm white color. Lá không lông có 15-18 cặp gân. Trái là nang dài 4cm.

Quá trình tạo thành Trầm hương và Kỳ nam

Không phải bất kỳ thân cây Gió nào cũng có thể có Trầm hương và Kỳ nam. Chỉ một số cây Gió có bệnh mới chứa Trầm ở phần lõi của thân. ở phần này, nếu quan sát kỹ qua độ phóng đại của kính lúp, ta thấy các tế bào gỗ thoái hóa, biến dạng, mất mộc tố, chứa một chất nhựa thơm (tinh dầu), trở thành những khối hình thể không đều, lồi lõm, có rãnh dọc, trong trong, màu sậm; đó là Kỳ nam (Bois d’aloès). Chung quanh Kỳ nam gỗ cũng biến chất ít nhiều, đó là Tóc (do chữ Camphuchia là Tok); khi đốt cháy Tóc tỏa ra mùi thơm, thường dùng làm làm nhang nên gọi là Trầm hương (Bois d’aigle).

Trầm và Kỳ nam đều ở lõi cây Gió do tích tụ nhiều hay ít tinh dầu, cho nên nếu không sành sỏi dễ bị nhầm lẫn lúc mua. Muốn phân biệt hai thứ ấy ta phải xem kỹ tính chất và khí vị của chúng: Gỗ Kỳ nam nặng và nhuyễn, có đủ vị cay, chua, đắng, ngọt, thơm tho. Nó tích chứa nhiều tinh dầu nên những lúc cháy cho ngọn màu xanh, khói lên thẳng và cao, bay lững lờ trong không khí rất mất thời gian.

Gỗ Trầm hương nhẹ hơn, có vị cay, hơi đắng, mùi thơm nhẹ nhõm. Khi đốt cháy Trầm hương bốc khói lên hình vòng rồi tan biến nhanh trong không khí.

Muốn phân biệt Kỳ nam tốt xấu thì người ta quan sát loại nào có sớ nhuyễn mịn, có nhiều tinh dầu là tốt, còn loại nào rắn chắc và ít dầu là xấu. Người ta thường gói Kỳ nam trong lá chuối thật kín rồi đem phơi nắng, đến tối đem vào nếu có nhiều chất dầu chảy ra là tốt. Muốn giữ Kỳ nam được tốt và lâu thì nên bọc vào giấy thiếc hoặc bỏ vào hộp có nắp đậy đậy kín để tinh dầu khỏi bay hơi hoặc chảy bớt.

Một số người thường lấy gỗ cây Sơn già (Exoecaria agallocha, Linné, thuộc họ Euphorbiaceae) để bán giả Trầm hương. Ở cây Sơn già nặng và rất cứng, có màu nâu đỏ, có chấm đen hoặc xám, vị đắng, có mùi thơm dễ chịu, nên một số người Ấn Độ hoặc Trung Quốc vẫn thường đốt để xông hương trong nhà cho thơm. Theo Petelot thì đó là một sự sai trái vì trong gỗ Agallocha có chứa một chất nhựa có tính độc làm hại đến sức khỏe của con người.

Theo kinh nghiệm của những người dân “đi điệu” (tìm trầm) cho hay, khi nào gặp những cây Gió cao 30-40 mét trở lên, lá đã vàng và nhỏ từ từ, thân cây có nhiều u bướu như những tổ kến hoặc gốc có gò mối đóng thì cây Gió đó có Kỳ nam. Khi gặp cây Gió như vậy họ phải hạ cây, đào tận rễ để tìm, vì Kỳ nam có thể nằm trên ngọn, ở thân hoặc ở rễ. Khi gặp những cây Gió còn non thì người ta thường dùng dao lụi vào thân cây thành những vết thương và theo dõi nhiều năm tiếp theo để lấy Trầm – Kỳ.

Người ta nhận định rằng khi bị thương, cây sẽ tích tụ nhựa đến đây để băng bó xem như thể khả năng tự đề kháng để chống bệnh nên tạo ra Trầm – Kỳ. Theo nhận xét của những người dân “đi điệu” lão thành thì dạo này đi rừng dễ gặp Trầm kỳ hơn trước đây kia, có nhẽ trong thời kì cuộc chiến tranh những mảnh bom đạn đã ghim vào thân cây Gió nên kích thích tạo ra Trầm – Kỳ. Cũng luôn tồn tại thể vì vậy mà sau ngày phóng thích có nhiều người đi rừng gặp Trầm và Kỳ nam.

Năm 1977, Julaluodin đã tìm thấy trong vùng Tóc của cây Gió có chứa một loại nấm Cryptosphaeria mangifera. Ông đã thử nghiệm bằng phương pháp cấy những nấm ấy vào thân những cây Gió lành mạnh. Sau một thời kì thì vùng nhiễm khuẩn trở thành sậm màu và trở thành Tóc rõ rệt vì khi đốt tỏa ra mùi trầm.

Phải chăng khi bị thương tích hoặc khi bị nhiễm bệnh ở một vùng nào đó, cây tích tụ nhựa đến để tự băng bó hoặc để tự đề kháng nên đã tạo thành Trầm hương và Kỳ nam.

Những cây Gió mọc trong rừng rậm trùng trùng điệp điệp xen lẫn với những loại cây điệp loại khác nên rất khó tìm kiếm, mà một khi tìm ra cây Gió cũng chắc gì đã có Trầm và Kỳ nam, thành thử nhiều người “đi điệu” phải luồn rừng từ thời điểm tháng này sang tháng khác để tìm kiếm. Ngoài lương thực tươi mang đi bỏ đầy “ruột tượng” để mang theo người, ăn cầm chừng cho đỡ đói trong lúc đi rừng dài ngày. Có nhiều khi hết lương thực, lúc đi lạc trong rừng, người “đi điệu” phải ngậm củ Ngải (Galanga cyrcuma), một loại riềng dại, có vị thơm dịu làm cho ruột đỡ cồn cào trong lúc tìm đường về.

Vì cuộc hành trình dài dài ngày và đầy gian lao vất vả nên người “ăn trầm” lúc trở về thường hốc hác, râu tóc xồm xoàm, trang phục rách tươm chẳng khác gì dã nhân nên nhiều người đã tưởng tượng ra cảnh “ngậm ngải tìm trầm lâu ngày trở thành người rừng”. Việc ngậm ngải cũng không phải để làm cho dã thú tránh xa như một vài người lầm tưởng, vì những người dân “đi điệu” thường mang theo roi mây hoặc roi dâu, thỉnh thoảng quất vào không khí thành những tiếng xé kêu “trót, trót”, chính những âm thanh ấy làm cho cọp beo tránh xa cũng như tiếng roi da của người dạy thú trong gánh xiếc làm cho voi cọp phải gườm.

Không phải ai “đi điệu” cũng tìm ra Trầm, có người tìm ra có người không, nên giới “ăn trầm” thường tin dị đoan rằng những kẻ lương thiện mới được Thiên Y Ana (hóa thân của cây Trầm, Kỳ nam) cho gặp. Vì vậy trước lúc đi rừng tìm kiếm, kẻ “đi điệu” phải xem ngày lành tháng tốt để xuất hành, trước đó phải ăn chay 3 ngày, tránh chung đụng với nữ giới, trong những lúc đi rừng không được có ý nghĩ u tối, không được nói chuyện cà rỡn, không gây sự nhau… Đến khi gặp được cây trầm thì người đó phải nhịn đói để giữ mình tinh khiết, tìm tới suối gần đó để tắm rửa cho thật sạch sẽ, rồi lập đàn thờ cúng vái tạ ơn thần Rừng trước lúc hạ cây Gió để tìm lõi Trầm kỳ.

Công dụng của Trầm hương và Kỳ nam

Xem Thêm : Nghề làm muối gọi là gì

Trầm hương và Kỳ nam của ta rất có mức giá trị trên thị trường quốc tế, nhất là khi đối chiếu với Trung Quốc. Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản. Đó là những hương liệu quý giá trong việc điều chế các loại nước hoa hảo hạng như Santal, Nuit d’Orient…, một số xà phòng tắm và nhất là nhang trầm.

Sở dĩ Trầm và Kỳ nam có mức giá trị cao là vì có công dụng chữa bệnh rất tốt trong Đông y:

Trừ sơn lam chướng khí: Người ta thường xông trầm trong nhà để trừ khí độc và thường mang Kỳ nam trong người để ngừa sơn lam chướng khí. ở một vài vùng, nhất là vùng Phú Khánh, người ta thường bọc Kỳ nam trong túi vải thưa để đeo ở cổ xem như “bùa hộ mệnh”. Trẻ em dưới 1 tuổi đeo 2 chỉ, 1 đến 5 tuổi đeo 3 chỉ, người lớn đeo 5 chỉ.

Dùng làm thuốc giải nhiệt và trừ sốt rét: ở Campuchia, theo những y sĩ Menaut và Phana Douk, người ta thường dùng Kỳ nam, Trầm và ngà voi quý hiếm mài với nước lạnh để uống. Ngày 2-3 lần, mỗi lần uống từ 3 phân tới 1 chỉ.

Thuốc trừ đau bụng: Theo y sĩ Sallet ghi nhận thì thuốc Nam có toa thuốc trị đau bụng rất hay gồm: Trầm hương 2 chỉ, sắc cùng Đậu khấu, hạt cau, vỏ cây Mộc lan, Sa nhơn, Can khương… trong 2 chén rưỡi nước còn sót lại 9 phân chia uống thành gấp đôi trong thời gian ngày sẽ làm cho bụng hết quặn đau.

Chữa bệnh đường tiểu tiện: Người ta thường mang Trầm kỳ ở vùng hội âm để chữa bệnh đường tiểu tiện.

– Theo Đông y, Kỳ nam dùng làm trị các chứng độc thủy do phong thổ gây nên, làm tiêu chứng chướng mãn, no hơi, đau bụng, ói mửa, hen suyễn thở gấp, hạ được nghịch khí, thông chứng bế do khí hư gây nên. Mài từ 3 phân tới 1 chỉ, tùy theo tuổi lớn nhỏ hòa với nước lạnh hoặc bỏ vào nước hâm nóng mà uống.

– Chống chỉ định:

+ Trầm kỳ là thuốc trụy thai, nên nữ giới có thai không nên uống hoặc mang trong mình, có thể làm sảy thai.

+ Những người dân suy nhược và biếng ăn, suy gan… không nên dùng Trầm – Kỳ.

– Tương khắc trầm kỳ có tính kỵ hỏa, thành thử không nên uống chung Trầm – Kỳ với những loại thuốc có tính chất thuộc hành hỏa tính theo âm khí và dương khí tử vi ngũ hành.

Phân chia địa lý của cây Trầm – Kỳ

Trầm kỳ thường tìm thấy trong những cây Gió mọc ở những vùng núi hướng về phía có gió biển nên ta thường gặp ở vùng phía Đông Trường Sơn hơn là Tây Trường Sơn.

Ở Đông Dương, Trầm kỳ có nhiều ở Campuchia và Việt Nam.

Riêng ở Việt Nam, ít tìm thấy Trầm kỳ ở phía trên vĩ tuyến 17.

– Ở Bình Trị Thiên thường tìm thấy ở vùng Cam Lộ của Quảng Trị, vùng A Sao, A Lưới, vùng Thanh Sơn. Ồ ồ và vùng đèo Hải vân thuộc Thừa Thiên.

– Ở Tỉnh Bình Định có từ vùng núi Quy Nhơn đi vào.

– Ở Khánh Hoà. Phú Yên có rất nhiều tại Vạn Giã, Tân Định, An Thành, Bình Khang, Duyên Khánh…

– Ở Bình Thuận có ở vùng núi giáp ranh với Lâm Đồng.

– Ở Lâm Đồng ta có thể tìm thấy Trầm kỳ ở các núi giáp ranh với Bình Thuận.

– Ở các hải đảo thì gặp nhiều Trầm – Kỳ tại Phú Quốc.

Xem Thêm : IT Onsite là gì? Top những điều cần lưu ý khi đi làm IT Onsite

Năm 1973, tôi đã hướng dẫn một số sinh viên theo học chứng từ Thực vật 2 thuộc trường ĐH Đà Lạt, theo đường Tà In vào Tà Nhiên, đến Sa Mai, Thác Thiêng… tìm tới được một khu rừng rậm có nhiều cây Gió. Ở đó chúng tôi đã được một cụ già “đi điệu” người Chàm hướng dẫn đi xem rừng và được cụ cho xem những mẫu Trầm hương và Kỳ nam đã thu được ở vùng này và vùng núi đi dọc giữa Di Linh và Phan Thiết. Chúng tôi nhìn thấy Trầm ở đây tốt chẳng khác gì Trầm hương ở Quảng Trị và Kỳ nam ở đây chũng gần bằng Kỳ nam vùng Khánh Hoà, Phú Yên.

Như vậy Lâm Đồng ngoài những rừng thông bát ngát có trữ lượng lớn để cung cấp gỗ thông, bột giấy và tùng hương, còn tồn tại triển vọng khai thác được Trầm kỳ là một mặt hàng xuất khẩu có mức giá trị rất cao trên thị trường quốc tế.

Muốn được sản lượng lớn, ngay từ thời điểm này phải có kế hoạch ngăn cản không để cho nhân dân hạ cây Gió một cách bừa bãi, song song trồng thêm nhiều cây Gió và cho nhiễm khuẩn để tạo thành Trầm và Kỳ nam do ta dữ thế chủ động để khỏi đi tìm kiếm vẩn vơ trong rừng rậm như những người dân “đi điệu” trước kia.

Nguồn: tin tức khoa học, công nghệ

________________________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Crevost et Petelot, Catalogue des produits de l’ Indochine, Hà Nội Thủ Đô, 1935

Phanna Douk, Contribution à létude des plantes médicinales du Cambodge, Luận án Tiến sĩ dược khoa, Paris 1966.

Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương, Cây trồng miền Nam Việt Nam, Bộ quốc gia giáo dục, Sài Gòn. 1970.

Phạm Hoàng Hộ, Thực vật ở đảo Phú Quốc, Nxb TP. Hồ Chí Minh 1985.

Nguyễn Trần Huân, Contribution à l’étude de l’ancienne thérapeutique vietnamienne. Luận án tiến sĩ y khoa, Hà Nội Thủ Đô, 1951.

H. Lecomte, Flore générale de l’indochine, 1910-1931.

Fereydoua Mehdyoun, Anatomie comparée et caryologie des Thymeleaceae, Luận án tiến sĩ ĐH khoa học Bordeaux. 1968.

Menaut, Matière médicinale cambodgienne. Hà Nội Thủ Đô, 1930.

Nguyễn Văn Minh, Dược tính chỉ nam. Sài Gòn 1969.

Francois Mouton, Le bois merveilleux du Sud, Lyon, 1970.

Perrot et Hurrier, Matière médicinale et pharmacopée sino-annamite, Vigot L?d, Paris. 1907

Alfred Petclot. Plantes médicinales du Cambodge, du Laos et du Viet Nam, Saigon, 1954.

A. Sallet. L’officine sino-annamite en Annam, Paris, 1931.

Tôn Thất Sam, Đại cương về địa chất, thổ nhưỡng và thảo mộc vùng Đà Lạt – Tuyên Đức, Sài Gòn, 1965.

Nguyễn Đình Tứ, Nước non Khánh Hòa, Sông Lam, 1969.

Thái Công Tụng và Tôn Thất Sam, Tài liệu hướng dẫn sưu tầm thực vật vùng Đà Lạt – Lâm Đồng. Nxb ĐH, 1973.

You May Also Like

About the Author: v1000