Huyệt là gì?

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Huyet la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

ĐỊNH NGHĨA HUYỆT

Bạn Đang Xem: Huyệt là gì?

Theo sách Linh khu thiên Cửu châm thập nhị nguyên: “Huyệt là nơi thần khí hoạt động vào – ra; nó được phân chia khắp phần ngoài thân thể”. Có thể khái niệm huyệt là nơi khí của tạng phủ, của kinh lạc, của cân cơ xương khớp tụ lại, tỏa ra ở phần ngoài thân thể.

Huyệt đạo trên cơ thể người Huyệt đạo trên thân thể người

Nói cách khác, huyệt là nơi tập trung cơ năng hoạt động của mỗi một tạng phủ, kinh lạc…., nằm ở một vị trí nhất mực nào đó trên thân thể con người.

Việc kích thích tại những huyệt vị này (bằng châm hay cứu) có thể làm những vị trí khác hay phòng ban của một nội tạng nào đó có sự phản ứng nhằm đạt được kết quả điều trị mong muốn.Huyệt không những có quan hệ chặt chẽ với những hoạt động sinh hoạt sinh lý và các biểu hiện bệnh lý của thân thể, mà còn làm cho việc chẩn đoán và phòng chữa bệnh một cách tích cực.Theo những sách xưa, huyệt được gọi dưới nhiều tên khác nhau: du huyệt , khổng huyệt , kinh huyệt , khí huyệt , cốt huyệt v.v……Ngày này huyệt là danh từ được sử dụng rộng rãi nhất.Các nhà khoa học ngày này chỉ xác nhận sự hiện hữu của huyệt vị châm cứu về mặt hiệu quả trị liệu và về mặt điện sinh vật.

TÁC DỤNG CỦA HUYỆT VỊ CHÂM CỨU THEO ĐÔNG Y

TÁC DỤNG SINH LÝHuyệt có quan hệ chặt chẽ với kinh mạch và tạng phủ mà nó phụ thuộc. Ví dụ huyệt thái uyên thuộc kinh Phế truất có quan hệ mật thiết:Với kinh PhếVới các tổ chức có đường kinh Phế truất đi qua.Với những chức năng sinh lý của tạng Phế truất.TÁC DỤNG TRONG BỆNH LÝTheo Đông y, huyệt cũng là cửa ngõ xâm lấn của những nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoàKhi thể chất của thân thể (chính khí) bị suy giảm thì những nguyên nhân bên phía ngoài (YHCT gọi là tà khí) dễ xâm lấn vào thân thể qua các cửa ngõ này để gây bệnh.Mặt khác, bệnh của những tạng phủ kinh lạc cũng được phản ánh ra ở huyệt: hoặc đau nhức tự nhiên, hoặc ấn vào đau, hoặc sắc tố ở huyệt thay đổi (trắng nhợt, đỏ thẫm), hoặc hình thái thay đổi (bong biểu so bì, mụn nhỏ hoặc sờ cứng phía dưới huyệt).TÁC DỤNG CHẨN ĐOÁNDựa vào những thay đổi ở huyệt đã nêu trên (đau nhức, đổi sắc tố, co cứng…..) ta có thêm tư liệu giúp chẩn đoán nhất là chẩn đoán vị trí bệnh (ví dụ huyệt tâm du đau hoặc ấn đau làm ta nghĩ đến bệnh ở Tâm).Những biểu hiện thất thường ở huyệt thường chỉ có mức giá trị gợi ý cho chẩn đoán. Để đã sở hữu được chẩn đoán xác định cần dựa vào toàn bộ phương pháp chẩn đoán của Đông y.TÁC DỤNG PHÒNG VÀ CHỮA BỆNHHuyệt còn là một nơi tiếp nhận những kích thích khác nhau. Tác động lên huyệt với một lượng kích thích thích hợp có thể làm điều hòa được những rối loạn bệnh lý, tái lập lại hoạt động sinh lý thường nhật của thân thể.Tác dụng điều trị này của huyệt tùy thuộc vào mối liên hệ giữa huyệt và kinh lạc tạng phủ, ví dụ: truất phế du (bối du huyệt của Phế truất) có tác dụng khi đối chiếu với chứng nghẹt thở, ho…; túc tam lý (hợp huyệt của kinh Vị) có tác dụng khi đối chiếu với chứng đau bụng.

PHÂN LOẠI HUYỆT

Xem Thêm : Better off là gì? Có phải là một điều gì đó tốt hơn không?

Địa thế căn cứ vào thuyết lí Kinh lạc, có thể chia huyệt làm 3 loại chính:Huyệt nằm trên phố kinh (huyệt của kinh – kinh huyệt)Huyệt của kinh là những huyệt trên 12 kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc. Một cách tổng quát, tất cả những huyệt vị châm cứu đều phải sở hữu những tác dụng chung trong sinh lý và bệnh lý như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, có những huyệt có vai trò quan trọng hơn những huyệt khác trong điều trị và chẩn đoán. Những huyệt này đã được người xưa tổng kết lại và đặt thêm tên cho chúng như nguyên, lạc, khích, ngũ du, bối du… Có thể tạm gọi đây là tên gọi chức vụ của những huyệt vị châm cứu (ngoài tên gọi riêng của từng huyệt). Những huyệt quan trọng này gồm:Huyệt nguyênThường được người thầy thuốc châm cứu xem là “huyệt đại diện thay mặt” của đường kinh. Mỗi kinh chính có một huyệt nguyên. Vị trí các huyệt nguyên thường nằm ở cổ tay, cổ chân hoặc gần đó. Do tính đại diện thay mặt của nguyên huyệt mà chúng thường được dùng để làm chẩn đoán và điều trị những bệnh hư, thực của tạng, phủ, kinh lạc tương ứng.Huyệt lạcHuyệt lạc là nơi khởi đầu của lạc ngang giúp nối liền giữa kinh dương và kinh âm tương ứng, thể hiện được quy luật âm dưong, quan hệ trong ngoài, quan hệ biểu lý. Mỗi kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc có một huyệt lạc. Ngoài ra do tính chất quan trọng của mạng lưới hệ thống Tỳ mà có thêm đại lạc của Tỳ. Tổng số có 15 huyệt lạc. Do đặc điểm giúp nối liền 2 kinh có quan hệ biểu lý mà huyệt lạc thường được dùng để làm điều trị bệnh của kinh có huyệt đó, song song điều trị cả bệnh của kinh có quan hệ biểu lý với nó.Huyệt bối du (huyệt du ở sống lưng)Những huyệt du ở sống lưng đều nằm dọc hai bên cột sống, cách đường giữa 1,5 thốn. Những huyệt này đều nằm trên kinh Bóng đái (đoạn ở sống lưng), nhưng đã được người thầy thuốc xưa đúc rút, ghi nhận có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh ở những tạng phủ khác nhau, ví dụ như truất phế du là huyệt thuộc kinh Bóng đái nhưng lại sở hữu tác dụng chủ yếu trên tạng Phế truất nên được người xưa xếp vào huyệt du ở sống lưng của tạng Phế truất.Người xưa nhận định rằng khí của tạng phủ tụ lại ở sống lưng tại một huyệt du tương ứng.Huyệt mộHuyệt mộ cũng được tổng kết theo cùng nguyên tắc như huyệt bối du, nhưng có hai điểm khác:Huyệt mộ có vị trí ở ngực và bụng.Huyệt mộ nằm trên nhiều đường kinh mạch khác nhau (ví dụ như huyệt thiên xu – huyệt mộ của Đại trường, nằm trên kinh Vị; huyệt trung quản – mộ huyệt của Vị, nằm trên mạch Nhâm).Huyệt ngũ duHuyệt ngũ du là nhóm 5 huyệt, có vị trí từ khuỷu tay và gối trở ra đến ngọn chChúng được gọi tên theo trật tự tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp.Đặc tính của huyệt ngũ du là có thể điều trị những chứng bệnh của bản kinh rất tốt.Những huyệt ngũ du thường được sử dụng trong điều trị theo hai cách:theo tác dụng chủ yếu của từng loại huyệt và theo luật tử vi ngũ hành sinh khắc (xin tham khảo thêm rõ ràng và cụ thể trong bài Nguyên tắc chọn huyệt)Huyệt khíchKhích có tức là khe hở, ý muốn diễn đạt đây là những khe nơi mạch khí tụ tập sâu trong thân thể. Về mặt vị trí, những khích huyệt thường tập trung phân chia ở giữa kẽ gân và xương.Huyệt khích cũng thuộc vào những yếu huyệt của kinh mạcMỗi kinh mạch trong 12 kinh chính đều phải sở hữu một huyệt khích. Ngoài ra mỗi mạch âm kiểu,Dương kiểu, âm duy, Dương duy cũng có thể có một huyệt khícTổng cộng có 16 huyệt khích và tất cả đều nằm trên kinh chính.Huyệt hội (bát hội huyệt)Huyệt hội là những huyệt có tác dụng chữa bệnh tốt cho những tổ chức (theo Đông y) của thân thể. Có 8 loại tổ chức trong thân thể: tạng, phủ, khí, huyết, xương, tủy, gân, mạcVì thế mang tên chung là tám hội huyệt (bát hội huyệt).Tám huyệt hội đều nằm trên kinh chính và mạch Nhâm.Hội tụ huyệtLà nơi những đường kinh và mạch (2 hoặc nhiều hơn) gặp nhau. Ngày nay, trong các sách châm cứu có tổng số 94 hội tụ huyệt được liệt kê. Những hội tụ huyệt đều nằm trên kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc.Đặc tính của những huyệt hội tụ là để chữa cùng lúc những bệnh của tất cả những kinh mạch có liên quan (châm một huyệt mà có tác dụng trên nhiều kinh mạch).Huyệt nằm ngoài đường kinh (huyệt ngoài kinh – ngoại kỳ huyệt)Được những nhà châm cứu xếp vào nhóm huyệt ngoài kinh là những huyệt không thuộc vào 12 kinh chínMột cách tổng quát, huyệt ngoài kinh thường nằm bên phía ngoài các đường kinTuy nhiên cũng có thể có một số huyệt, dù nằm trên phố tuần hoàn của kinh mạch chính, song không phải là huyệt của kinh mạch ấy, như huyệt ấn đường nằm tại vị trí trên mạch Đốc, nhưng không phải huyệt của mạch ĐốcCó tất cả hơn 200 huyệt ngoài kin Đây là những huyệt không thấy đề cập trong sách Nội kinh, mà do các nhà châm cứu đời sau quan sát và phát hiện dần.Từ thời điểm năm 1982, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tổ chức nhiều hội thảo chiến lược khoa học với sự tham gia của nhiều Chuyên Viên châm cứu của những quốc gia được xem là hàng đầu trong nghành nghề châm cứu (những hội nghị liên vùng) nhằm thống nhất nhiều nội dung quan trọng của châm cứu như số lượng huyệt kinh điển, danh xưng quốc tế của kinh lạc, huyệt ngoài kinh, đầu châm, mạng lưới hệ thống đơn vị đo lường và tính toán … Năm 1984, Hội nghị Tokyo đã gật đầu đồng ý 31 huyệt ngoài kinTất cả những huyệt trên đều là những huyệt ngoài kinh đã được ghi trong sách kinh điển và rất thông dụnHội nghị HongKong năm 1985 gật đầu đồng ý thêm 5 huyệt ngoại kỳ kinh điển và thêm 12 huyệt ngoại kỳ mớHuyệt ngoại kỳ đã được thảo luận và chọn dựa theo những tiêu chí sau:

Phải là những huyệt thông dụng.Phải có hiệu quả trị liệu lâm sàng.Phải có vị trí phẫu thuật rõ ràng.Phải cách tối thiểu huyệt kinh điển (huyệt trên phố kinh) 0,5 thốn.

Nếu huyệt ngoài kinh mang tên trùng với huyệt kinh điển thì phải thêm phía trước tên huyệt ấy một tiếp đầu ngữ (prefix).Có tất cả 48 huyệt ngoài kinh đáp ứng đủ những tiêu chí trên, gồm 15 ở đầu mặt, 1 ở ngực bụng, 9 ở sống lưng, 11 ở tay và 12 ở chân. Ký hiệu quốc tế thống nhất cho huyệt ngoài kinh là Ex.Huyệt tại phần đau (a thị huyệt)Đây là những huyệt không có vị trí nhất mực, cũng không tồn tại mãi mãi. Chúng chỉ xuất ngày nay những chỗ đau. Huyệt a thị còn được gọi là huyệt không nhất mực (Châm phương) hoặc huyệt thiên ứng(Y khoa cương mục).Cơ sở lý luận của việc hình thành huyệt a thị là nguyên tắc “Lấy chỗ đau làm huyệt” của châm cứu học (được ghi trong Nội kinh).A thị huyệt thường được sử dụng trong điều trị các chứng đau nhức cấp hoặc mạn tính.

VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ PHÁT HIỆN HUYỆTThời đoạn huyệt chưa xuất hiện vị trí nhất mựcĐó là thời đoạn sơ khai, con người chỉ biết rằng nơi đâu khó chịu, không được thoải mái thì đấm vỗ hoặc chích vào nơi ấy: đó là cách lấy huyệt tại chỗ đau hay cục bộ (đau ở đây gồm đau tự phát và ấn vào đau). Phương pháp này chọn huyệt không có vùng quy định và dĩ nhiên cũng không mang tên huyệt.Thời đoạn mang tên huyệtQua thực tế trị liệu, con người đã biết được: bệnh chứng “A” thì châm cứu ở một vài vị trí nào đó có thể trị được bệnTừ đó từ từ ghi nhận được huyệt vị không những có thể trị được bệnh tại chỗ, lại còn tồn tại thể trị được bệnh chứng ở vùng xa hơn. Khi đó, người ta đã tích lũy được kinh nghiệm tương đối nhiều, sự hiểu biết tương đối có suy luận. Vì vậy, thời đoạn này huyệt được xác định vị trí rõ ràng và được đặt tên riêng rẽ.Thời đoạn phân loại có mạng lưới hệ thốngVới Tay nghề Kinh nghiệm, thực tế điều trị được tích lũy nhiều năm kết phù hợp với các quy luật triết học Đông phương (âm khí và dương khí, tử vi ngũ hành) ứng dụng vào y khoa, các thầy thuốc lúc bấy giờ đã phân tích, tổng hợp để hình thành lý luận kinh lạc, có quan hệ chặt chẽ với mạng lưới hệ thống phân loại huyệt.Các sách xưa đã mô tả 49 đơn huyệt, 300 huyệt kép, tất cả là 349 huyệt mang tên. Về sau qua nhiều thời đại, các sách vở lại tăng đều thêm số huyệt (bảng 8.1). Từ thời điểm năm 1982, tổ chức WHO đã thống nhất được 361 huyệt kinh điển. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐẶT TÊN HUYỆT VỊ CHÂM CỨU

Huyệt trên thân thể có hơn cả nghìn huyệt (chung cả hai bên phải và trái). Ngoài tên các kỳ huyệt (huyệt ngoài kinh) và tên các tân huyệt (huyệt được liệt kê sau này dưới nhãn quan Tây y khoa), có tất cả 361 tên huyệt.Như đã trình bày ở trên, thuở đầu huyệt không mang tên riênQua nhiều thời kì, vị trí và tác dụng điều trị của từng huyệt đã dần dần được xác lập. Để dễ ghi nhớ và sử dụng, người xưa đã đặt tên cho từng huyệt theo đặc điểm và hiệu quả trị liệu của nó, trong đó có nhiều huyệt cho tới ngày này vẫn giữ nguyên tên thuở đầu.Có thể thấy việc đặt tên huyệt châm cứu của người xưa đã dựa trên những cơ sở như: hình thể sự vật, vị trí và tác dụng trị liệu của huyệt… Dựa vào hình thể của sự việc vậtNhững huyệt mà tên gọi có mang những từ sơn (núi) như thừa sơn, khưu (gò) như khâu khưu, lăng (gò lớn) như âm lăng tuyền, dương lăng tuyền là những huyệt thường có vị trí gần nơi xương gồ lên dưới da (các ụ xương..).Những huyệt mà tên gọi có mang những từ khê (khe) như giải khê, thái khê; cốc (hang) như hợp cốc; cấu (rãnh, ngòi) như thủy cấu; trì (ao) như phong trì; tuyền (suối) như dũng tuyền; uyên (vực sâu) như thái uyên; tỉnh (giếng) như thiên tỉnh là những huyệt thường có vị trí ở những vùng hõm của thân thể.Những huyệt mang tên rất tượng hình như độc tỵ (mũi nghé) ở dưới xương bánh chè, huyệt cưu vĩ (đuôi chim ưng) ở mũi kiếm xương ức, huyệt phục thỏ (thỏ ẩn núp) ở mặt trước ngoài đùi cũng là những minh họa về phong thái đặt tên này.Dựa vào vị trí của huyệt trên thân thểMột số tên huyệt giúp gợi nhớ thông qua vị trí của chúng trên thân thể.Những tên huyệt có mang từ kiên (vai) như kiên tỉnh, kiên ngung giúp liên tưởng đến vị trí của chúng ở vaNhững tên huyệt có mang từ dương như dương lăng tuyền, dương trì, dương quan; ngoạinhư ngoại quan giúp liên tưởng đến vị trí của chúng ở mặt ngoài và sau của thân thể. Những tên huyệt có mang từ âm như âm lăng tuyền, âm giao; nội như nội quan giúp liên tưởng đến vị trí của chúng ở mặt trong và trước của thân thể (thủ công).Cũng với cơ sở trên mà những huyệt như tiền đính (ở trên đầu phía trước), hậu đính (ở trên đầu phía sau), giáp xa (ở hàm dưới), nhũ trung (giữa hai vú), thái dương (ở màng tang, vùng thái dương),yêu du (ở eo sống lưng).Dựa vào tác dụng trị liệu của huyệtNhững tên huyệt mang từ phong (gió) như huyệt phong trì, phong môn dùng để làm trị và phòng chống cảm cúm.Huyệt tình minh (con ngươi sáng) dùng để làm trị thị lực kém.Huyệt nghinh hương (đón mùi thơm) dùng để làm trị những bệnh ở mũi.Huyệt thính cung, thính hội dùng để làm trị những trường hợp thính lực rối loạn.Huyệt thủy phân, phục lưu (dòng chảy trái lại) dùng để làm trị phù thũng.Huyệt á môn trị những trường hợp câm.Huyệt huyết hải trị những trường kinh nguyệt không đều.Những tên gọi khác nhau của huyệtHiện nay, có thể thấy cùng một huyệt được gọi với nhiều tên khác nhau. Để tiện tham khảo chúng tôi nỗ lực cố gắng ghi lại những tên khác nhau của huyệt (nếu có). Theo Lê Quý Ngưu, sở dĩ có tình trạng nêu trên là vì:Do có sự khác nhau ngay trong các sách kinh điển thượng cổ của Đông y. huyệt đốc du trong Châm cứu đại thành là huyệt đốc mạch du trong y tâm phương.Các sách xưa gọi tên một huyệt dưới nhiều tên gọi khác nhau. Huyệt bách hội còn được gọi dưới những tên: tam dương ngũ hội, nê hoàn cung, duy hội, quỷ môn, thiên sơn, điên thượng, thiên mãn …Do “Tam sao thất bổn”: một số huyệt khi phiên âm qua tiếng Việt, với nhiều khác biệt về địa phương, thổ ngữ khác nhau, nhiều tư liệu khác nhau dẫn đến nhiều tên gọi kháVí dụ như bách lao còn được gọi bá lao, chi chánh và chi chính, châu vinh và chu vinh, đại trữ và đại trữ, hòa liêu và hòa giao.

(yduochoc.vn)-

Huyệt là gì?

Khí không chỉ tồn tại bên trong thân thể mà còn toả ra ngoài thân thể (tạo ra 1 dạng không gian đặc biệt quan trọng xung quanh thân thể mà người ta thường gọi là “hào quang đãng”, “trường sinh vật học”, hay “trường nhân thể”). Những điểm trên thân thể mà tại đó khí trong thân thể và khí ngoài thân thể có thể lưu thông với nhau được gọi là huyệt.

Xem Thêm : Sa bàn là gì? Những lưu ý quan trọng khi làm sa bàn

Để đơn giản, hãy tưởng tượng thân thể giống như một nam châm hút từ. Các đường sức từ tạo thành vòng khép kín, một phần ở trong nam châm hút từ , một phần chạy bên phía ngoài. Phần bên trong nam châm hút từ giống như những kinh mạch, phần bên phía ngoài giống như những hào quang đãng. Giao điểm của những đường sức với mặt phẳng nam châm hút từ là các huyệt.

Các nghiên cứu của y khoa tiến bộ cho thấy: Vị trí của những huyệt trên thân thể thường là đầu mối của những dây thần kinh và mạch máu. Về mặt vật lý, các huyệt thường nằm ở vị trí lõm và có điện trở nhỏ hơn so với những điểm phụ cận. Sử dụng các máy đo điện trở, người ta đã tìm ra hàng trăm huyệt mới không có trong các tài liệu Đông y truyền thống. Có nhẽ nhờ những đặc điểm như vậy mà khí có thể lưu thông được qua huyệt dễ dàng hơn qua những điểm khác của thân thể. Huyệt thường được biết tới nhờ phương pháp châm cứu hay bấm huyệt. Mục tiêu của những phương pháp này chủ yếu nhằm tăng cường khả năng lưu thông của khí qua huyệt, cân bằng giữa khí bên trong và bên phía ngoài. Từ đó có thể chữa bệnh và năng cao sức khoẻ.Huyệt có thể nằm trên kinh mạch, cũng có thể có thể không. Một số huyệt lại chỉ xuất hiện khi thân thể gặp những biến cố đặc biệt quan trọng như đau ốm, đau ốm…

Một khái niệm khác cũng rất gần gụi với huyệt, đó là Luân xa. Luân xa không phải là một vị trí trên thân thể. Luân xa là một khái niệm để chỉ Khí (năng lượng sinh vật học) khi nó lưu thông qua huyệt. Khí ở bên phía ngoài huyệt sẽ xoay tròn tạo thành 1 vòng xoáy hình nón (một số nhà nghiên cứu còn khẳng định chiều quay của luân xa hoàn toàn phù phù hợp với quy tắc “cái đinh ốc” trong vật lý học!)

Kinh mạch và huyệt

Đông y và khí công thường nhắc đến kinh mạch như những dãy phố vận hành và luân chuyển của khí trong thân thể. Còn huyệt là những điểm đặc biệt quan trọng trên thân thể mà tại đó có thể thu khí, phát khí, châm cứu chữa bệnh… Nếu xét theo ý kiến của khoa học tiến bộ thì chúng là cái gì? Trước hết hãy nói về kinh mạch. Liệu có phải trong thân thể tồn tại những dãy phố đặc biệt quan trọng như vậy hay là không? Mọi nghiên cứu của khoa phẫu thuật học đều cho thấy không tồn tại những đường kinh mạch theo những sơ đồ truyền thống của Đông y, tức là không tồn tại những đường vận hành khí một cách hữu hình trong thân thể (như mạch máu hay dây thần kinh). Nhưng những người dân tập dượt khí công đều khẳng định là có những dãy phố này. Họ cảm nhận rất rõ ràng sự vận hành cuả khí trong thân thể theo những dãy phố đó. Thêm vào đó, những dãy phố này sẽ không phải là định hình. Có khi kinh mạch cảm nhận được chỉ nhỏ như sợi tóc, có khi lại to bằng ngón tay, thậm chí là to hơn, có khi lan rộng ra phủ khắp thân thể, không còn phân biệt kinh mạch nào nữa.Qua các đặc điểm trên của kinh mạch, kết phù hợp với các ý kiến về Khí đã trình bày ở phần trước, ta có thể đưa ra ý kiến về kinh mạch như sau: Khí có mặt ở khắp mọi nơi trong thân thể, và chúng không ngừng nghỉ vận động truyền lan đi theo mô hình sóng. Cường độ của sóng (hay trường) tại những điểm khác nhau trong thân thể là khác nhau (tuỳ thuộc vào đặc điểm của thân thể tại điểm đó). Trên thân thể có tồn tại những điểm đặc biệt quan trọng khiến cho cường độ sóng sinh vật học tại những điểm đó lơn hơn những điểm khác và sóng cũng dễ truyền lan hơn khi qua những điểm đó. Tập hợp những điểm như vậy tạo thành những đường truyền sóng hay kinh mạch. Con người dân có thể cảm nhận được kinh mạch là vì sự tác động của khí vào các tế bào thần kinh. Sóng Viral sẽ tác động vào tế bào thần kinh trên phố truyền sóng. Tuỳ thuộc vào cường độ của sóng tại điểm này mà tác động đó là mạnh hay yếu. Kết quả là con người dân có thể cảm nhận được khí chuyển động trong kinh mạch với độ mạnh yếu khác nhau (Khi thì khí chạy nhanh, khi thì chạy chậm, lúc thì kinh mạch to, lúc thì nhỏ…). Có những lúc sóng truyền lan khắp thân thể, tạo cảm giác tê nóng toàn thân, không còn thấy tháng mạch nữa. Trái lại, chính các tế bào thần kinh cũng có thể có khả năng tác động tới sóng sinh vật học (do cũng có thể có những đặc điểm điện – từ tương tự). Con người dân có thể sử dụng các tín hiệu thần kinh phát đi từ não để tinh chỉnh và điều khiển sự vận hành của luồng khí theo ý mình như tụ khí vào 1 điểm, đưa khí tới những kinh mạch khác nhau… Do tính chất động của thân thể (trạng thái của thân thể luôn thay đổi, lúc khoẻ, lúc yếu, lúc vui vẻ, lúc buồn chán…) nên sự vận hành của khí theo những kinh mạch cũng luôn biến động. Khi từ khí mạnh ở kinh mạch này, khi thì mạnh ở kinh mạch khác (Đông y đã tổng kết, gọi là sự việc vận hành của khí trong 12 chính kinh theo 12 giờ trong thời gian ngày). Cần phải nắm vững quy luật này để tác động tới khí một cách hiệu quả nhất.

KINH HUYỆT:

Tây Y vẫn còn ngạc nhiên về lối chữa bệnh bằng phương pháp châm cứu của người Trung Hoa. Những cây kim nhỏ cắm vào các huyệt trên thân thể có thể chữa lành rất nhiều đau ốm.Khi phẫu thuật, các y sĩ không tìm thấy huyệt đạo ở đâu. Nó không phải mạch máu, không phải thần kinh. Nó có tác dụng khi đối chiếu với thân thể, nhưng vô hình dung ! Các y sĩ Pháp tiêm thuốc màu vào các vùng huyệt và thấy thuốc bị biến hình. Nếu thuốc không tiêm đúng huyệt sẽ không còn bị biến hình. Nhờ phương pháp này lần trước hết họ chụp được vị trí các huyệt. Nhưng kinh huyệt là gì thì vẫn không có lời khái niệm xác đáng. Như tất cả chúng ta đã biết, Tưởng, Hành và Thức ấm phát ra một trường không gian vô hình dung trùm phủ cả trái đất. Còn riêng khi đối chiếu với Sắc ấm (thân thể) tâm tất cả chúng ta cũng khéo léo xếp đặt một mạng lưới hệ thống đường tín hiệu vô hình dung. Nếu não bộ là hình ảnh vật chất của tâm thì kinh huyệt là hình ảnh ý thức của thân. Bắp thịt, mạch máu, gân, xương… là cấu trúc hữu hình của thân. Kinh huyệt sẽ là cấu trúc vô hình dung của thân. Não bộ là cấu trúc hữu hình của tâm và Trường không gian sinh vật học sẽ là cấu trúc vô hình dung của tâm. Các chất liệu để cấu trúc nên Kinh huyệt cũng là chất liệu để cấu trúc nên Trường không gian của tâm. Ðối với không gian gian bên phía ngoài, tâm tạo ra vùng không gian tỏa rộng. Ðối với thân thể tâm tạo ra các kênh tín hiệu.Thân chịu tác động ảnh hưởng bởi mạch máu, hệ thần kinh, và cũng chịu tác động ảnh hưởng của những kênh tín hiệu (kinh huyệt) này. Nếu có sự thất vọng huyệt đạo, thân thể sẽ bị bệnh. Châm cứu đây là phương pháp khai thông huyệt đạo hỗ trợ cho thân thể trở lại thường nhật.Dù sao tất cả chúng ta cũng cảm phục các vị Y tổ Trung Hoa đã phát hiện ra mạng lưới hệ thống huyệt đạo kỳ lạ này. Trong cái cấu trúc siêu hình của thân này, có những luồng khí lực chạy lên chạy xuống theo những quy luật nhất định. Một quy luật quan trọng cho việc vận động vô hình dung đó là luật Âm Dương. Theo luật Âm Dương này, gốc của khí lực nằm ở phía dưới bụng và theo đường xương sống. Chính vì khám phá điều này mà người Trung Hoa Ấn Ðộ, Tây Tạng lập thành môn khí công, Yoga nổi tiếng thế giới. Họ không chú trọng tập luyện cơ bắp như Tây thiên. Họ chú trọng việc dùng tâm để củng cố cái gốc sức mạnh ở dưới bụng (Ðan Ðiền), ở xương sống để tạo thành một kình lực mới, khác hơn lực cơ bắp, và dữ dội hơn lực cơ bắp. Nhan nhản khắp Trung Hoa ngày này, người ta thấy rất nhiều người luyện thành quan nha khí công này với những năng lực đặc biệt quan trọng như khinh thân, công phá, chữa bệnh… Còn những Lạt Ma Tây tạng thì được xếp loại lơn hơn nữa .Theo luật Âm Dương này thì những gì khuất phía dưới, núp phía sau, tiềm tàng vô hình dung mới là cái gốc phát sinh ra những cái mặt phẳng. Người Ðông Phương khám phá luật này nên có phong cách sống trầm lặng thâm thúy hơn người Tây Phương.

Phamcongviet.blogspot.com

  • Y khoa cổ truyền trong xử lý cấp cứu và điều trị đột quỵ
  • Đông y đơn giản chữa say nắng, say nóng
  • Bài thuốc chữa khỏi viêm ruột già cho vợ tôi
  • Bài thuốc chữa vết mổ nhiễm trùng cực kỳ đơn giản mà hiệu quả
  • Bài thuốc hay chữa khỏi hẳn bệnh viêm ruột già
  • Bài thuốc trị tiểu đường thần kỳ dễ nấu ai cũng có thể có thể tự làm

You May Also Like

About the Author: v1000

tỷ lệ kèo trực tuyến manclub 789club