Lịch sử hình thành tỉnh Hà Nam

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Ha nam la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog để cập nhật kiến thức mới nhất.

Từ khởi thủy, lịch sử hào hùng và văn hóa truyền thống của vùng đất Hà Nam hiện nay gắn kết với châu thổ Bắc Bộ. Là một trong những vùng trầm tích trẻ của miền võng TP.HN rộng lớn, cho tới nay vết tích con người tiền sử trước tiên mới được phát hiện ở hang Chuông, hang Gióng Lở (xã Thanh Nghị, Thanh Liêm) có niên đại trên dưới 5000 năm thuộc hậu kỳ thời đại đồ đá mới, sơ kỳ thời đại đồ đồng.

Bạn Đang Xem: Lịch sử hình thành tỉnh Hà Nam

Diên cách vùng đất Hà Nam trước lúc thành lập tỉnh Địa thế căn cứ vào ghi chép của sử cũ, có thể thấy được diên cách của vùng đất Hà Nam qua các thời kỳ. Hùng Vương thống nhất các bộ lạc, đặt tên nước là Văn Lang, chia toàn quốc thành 15 bộ, Hà Nam lúc ấy thuộc bộ Giao Chỉ.

Sang thời kỳ nước Âu Lạc số bộ tăng lên 17 và tên bộ cũng sẽ có sự thay đổi, vùng đất Hà Nam lúc này thuộc bộ Chu Diên.

Nước Âu Lạc bị nhà Hán chinh phục năm 111 trước Công nguyên. Nhà Hán chia vùng đất cũ và đất mới chiếm thêm làm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, dưới quận là huyện. Theo sách Tiền Hán thư địa lý chí thì quận Giao Chỉ gồm 10 huyện: Liên Lâu, An Định, Câu Lâu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. Huyện thời Hán có đất đai rất rộng. Vùng đất Hà Nam kiên cố thuộc quận Giao Chỉ, nhưng cụ thể thuộc huyện nào?

Học giả Đào Duy Anh đã địa thế căn cứ vào “Thủy kinh chú đồ” của Dương Thủ Kinh so sánh với map Bắc Bộ hiện nay, đưa ra nhận định: “Sách Thanh bình hoàn vũ ký gọi sông Đáy, tức sông Hát là sông Chu Diên. Cứ thế thì huyện Chu Diên có thể tương đương với một phần tỉnh Hà Tây và miền Hà Nam ở giữa sông Đáy và sông Hồng”. Như vậy, vào thời Hán, tỉnh Hà Nam hiện nay nằm trọn trong đất huyện Chu Diên.

Đến thời Tam Quốc và thời Lưỡng Tấn thống trị, đơn vị hành chính lại thay đổi. Nhà Ngô đặt Giao Châu, dưới châu có quận, dưới quận chia đặt các huyện. Vùng đất Hà Nam lúc này thuộc quận Vũ Bình. Huyện Chu Diên không còn là một huyện Chu Diên thời Hán nữa mà được chia ra thành các huyện nhỏ. Vùng đất Hà Nam khi đó bao trùm đất đai của những huyện Vũ Ninh, Vũ Hưng, Tiến Sơn, Căn Ninh, Vũ Định và gộp thêm một phần đất phía Nam tỉnh HĐ Hà Đông (cũ).

Thời Nam Bắc triều (Tống, Tề, Lương) lập các quận Giao Chỉ, Vũ Bình, Cửu Chân, Nhật Nam, Tống Bình. Quận Vũ Bình về cơ bản cương vực được giữ nguyên như cũ và Hà Nam vẫn thuộc quận này. Nhà Tùy thay đổi đơn vị hành chính. Quận Vũ Bình bị huỷ bỏ chỉ đặt làm huyện, đến năm Khai Hoàng thứ 18 thay tên thành huyện Long Bình tương đương với vùng đất của ba tỉnh Hà Nam, HĐ Hà Đông, một phần Hòa Bình thuộc lưu vực sông Đáy.

Sau khoản thời gian diệt nhà Tùy, nhà Đường sửa lại toàn Bộ độ độ hành chính và sự phân chia châu, quận. Nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng quản để quản lĩnh 10 châu: Giao, Phong, Ái, Tiêm, Diêm, Tống, Từ, Hiểm, Đạo, Long. Đến năm 679 đổi Giao Châu đại tổng quản thành An Nam đô hộ phủ. Vùng đất Hà Nam lúc này thuộc huyện Vũ Bình lệ vào phủ đô hộ này.

Năm 907, Khúc Hạo định lại các đơn vị hành chính, lấy lộ thay cho châu, phủ thay cho huyện nhưng vẫn dùng tên các châu của thời Đường. Vùng đất Hà Nam thuộc phủ Vũ Bình, lộ Giao. Đinh Tiên Hoàng chia toàn quốc làm 10 đạo, nhưng sử cũ không cho thấy rõ danh hiệu và vị trí các đạo ra làm sao. Đến Vua Lê Hoàn đổi 10 đạo làm lộ, phủ, châu song sử cũng không chép tên. Lý Công Uẩn lên ngôi chia toàn quốc làm 12 lộ, song sách Toàn thư và Cương mục chỉ chép tên 12 lộ. Địa thế căn cứ vào tên các lộ, so sánh với map có thể nhận định vùng đất Hà Nam nằm trong lộ Hoàng Giang.

Trần Thái Tông chia toàn quốc thành 12 lộ, nhưng các bộ sử cũ chỉ cho thấy tên 11 lộ. Qua văn bia chùa Giầu (thôn Trung, xã Đinh Xá, thành phố Phủ Lý) thì tên lộ không đủ là Lợi Nhân và vùng đất Hà Nam phần lớn thuộc lộ này.

Nhà Minh sau lúc vượt mặt nhà Hồ, đặt phủ, châu, huyện ở nước ta, đại thể địa thế căn cứ vào tình hình ở cuối thời Trần. Năm Vĩnh Lạc thứ 6 (1419) thiết định sự lệ thuộc của đơn vị hành chính cấp dưới vào đơn vị hành chính cấp trên. Nước ta lúc ấy chia làm 24 lộ, phủ, trấn. Trong lộ Đông Đô (hay lộ Đại La Thành) có 5 châu, một phủ. Tên châu Lỵ Nhân lần trước tiên xuất hiện và thuộc lộ này. Thông thuộc vào châu Lỵ Nhân có 6 huyện Thanh Liêm, Bình Lục, Cổ Bảng, Cổ Giả, Cổ Lễ, Lỵ Nhân.

Xem Thêm : Máy bơm rửa xe đa năng

Lê Lợi sau lúc đánh đuổi quân Minh, trên lãnh thổ thống nhất chia toàn quốc làm 5 đạo: Nam đạo, Bắc đạo, Đông đạo, Tây đạo và Hải Tây đạo, đặt các lộ, trấn, phủ, châu, huyện thuộc vào các đạo. Châu Lỵ Nhân thuộc Nam đạo. Năm 1466, vua Lê Thánh Tông chia các đạo thành 12 Thừa tuyên, vùng đất Hà Nam thuộc Thừa tuyên Sơn Nam. Tên châu Lỵ Nhân và 6 huyện không có gì thay đổi.

Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đời Vua Lê Thánh Tông đổi Thừa tuyên thành xứ, tên gọi giữ nguyên. Đến niên hiệu Hồng Thuận (1509 – 1516) đời Vua Lê Tương Dực đổi xứ thành trấn. Hà Nam tuần tự thuộc xứ rồi trấn Sơn Nam. Dưới thời Vua Lê Hiển Tông, năm Cảnh Hưng thứ hai (1741) đổi trấn làm lộ. Trấn Sơn Nam chia làm hai lộ: Sơn Nam Thượng lộ và Sơn Nam Hạ lộ, vùng đất Hà Nam thuộc lộ Sơn Nam Thượng.

Thời Tây Sơn đổi lộ thành trấn có trấn Sơn Nam Thượng và trấn Sơn Nam Hạ, vùng đất Hà Nam thuộc trấn Sơn Nam Thượng. Năm Minh Mạng thứ 13 (1822) nhà Nguyễn thay tên trấn Sơn Nam Thượng thành trấn Sơn Nam, trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Tỉnh Nam Định.

Lịch sử hình thảnh tỉnh Hà Nam
Cầu qua sông Châu nối trung tâm thị xã Phủ Lý với xã Lam Hạ trước năm 2010 (ảnh trái) và cầu Châu Giang nối Đường Lê Công Thanh kéo dãn dài với phường Lam Hạ hiện nay (ảnh phải). Ảnh: Thế Tân – Trương Dũng

Quá trình thành lập tỉnh Hà Nam Năm 1831, dưới triều Vua Minh Mạng, nhà Nguyễn tiến hành cải cách hành chính, thành lập các tỉnh thay cho những trấn, toàn quốc chia thành 29 tỉnh. Theo chủ trương này, vùng đất Hà Nam ngày ấy là phủ Lý Nhân nằm trong tỉnh TP.HN.

Tháng 8 năm Kỷ Hợi (1839), triều đình cử Khâm sai đại thần Vũ Văn Cẩn đi nắm tình hình về nạn đói ở 5 huyện của tỉnh TP.HN. Nghe Khâm sai về văn bản báo cáo, trình bày một số lý do, trong đó có việc địa hình cách trở, quản lý khó sâu sát Vua Minh Mạng đã có ý cắt một phần đất đai TP.HN để thành lập tỉnh mới.

Qua các đời Vua Thiệu Trị, Tự Đức, việc này cũng được bàn đến, song vẫn bị gác lại. Yêu cầu thành lập một tỉnh mới tách ra từ tỉnh TP.HN càng trở lên cấp thiết khi Tổng đốc Hà Ninh – Hoàng Diệu có tờ tấu với triều đình ngày 10/10 năm Tân Tỵ (1881): “Núi sông cách trở, địa dư khác nhau, cằn cỗi, phì nhiêu, phong tục xa xỉ, tiết kiệm chi phí phân biệt; quan lại thống trị ngần ngại lặn lội. Do vậy phải chia rẽ ròi, phân công rõ rệt, để việc của người nào thì người ấy gắng sức mà làm”.

Lý do Hoàng Diệu đưa ra hẳn đã tác động đến triều đình nhà Nguyễn, bởi vì ông là Tổng đốc kiêm quản cả hai tỉnh TP.HN, Tỉnh Ninh Bình, thông hiểu thực tế. Phủ Lý Nhân là một vùng đệm, Bắc, Nam đều phải sở hữu sông ngăn cách, địa lý, phong tục có đặc điểm riêng. Vì thế, ngày 4/12/1888 được sự khuyến khích của những quan lại trong triều, viên Công sứ người Pháp, tên Việt Nam là Nguyễn Đức Hợp cùng Nguyễn Huyên – Kinh lược sứ Bắc Kỳ của nhà Nguyễn đứng ra dàn xếp việc chia đặt. Kết quả gần hai năm sau, ngày 21/3/1890, phủ Liêm Bình được thành lập, gồm 3 huyện Nam Xang, Bình Lục, Thanh Liêm tách ra từ phủ Lý Nhân (tỉnh TP.HN) cho thuộc vào tỉnh Tỉnh Nam Định, lỵ sở của huyện đặt tại xã An Dương (huyện Bình Lục). Phủ Liêm Bình tồn tại không lâu thì ngày 20/10 năm đó, Toàn quyền Đông Dương J.G Piquet ra Nghị định thành lập tỉnh mới Hà Nam, trên cơ sở:

Bỏ phủ Liêm Bình, đưa 3 huyện Nam Xang, Bình Lục, Thanh Liêm trở lại phủ Lý Nhân.

Cắt các tổng Kim Lũ (huyện Mỹ Lộc), Cổ Viễn (huyện Thượng Nguyên) thuộc phủ Xuân Trường, 5 xã tổng Vụ Bản (huyện Thiên Bản) phủ Nghĩa Hưng của tỉnh Tỉnh Nam Định sáp nhập vào huyện Bình Lục. (1)

Cắt 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên Nghiệp thuộc huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, tỉnh TP.HN nhập vào huyện Duy Tiên (2).

Như vậy, tỉnh Hà Nam hình thành trên đất đai và người dân của phủ Lý Nhân được mở rộng thêm về phía TP.HN (Bắc) và Tỉnh Nam Định (Nam).

Nghĩa là tên gọi tỉnh Hà Nam là điều cần tìm hiểu. Những người dân quan tâm đưa ra 3 kiến giải khác nhau: Một là, Hà Nam: vùng đất phía Nam; Hai là, Hà Nam: tên ghép 2 chữ đầu của TP.HN, Tỉnh Nam Định; Ba là, Hà Nam: vùng sông nước phía nam, nói khác đi là ở phía nam Hồng Hà (sông Hồng). Ngược dòng lịch sử hào hùng, tất cả chúng ta thấy từ thời Hậu Lê trở đi có tư duy lấy kinh đô làm trung tâm để tại vị tên (Bắc, Nam, Đông, Tây), về cơ bản 4 tỉnh liền khoảnh với kinh đô ở 4 phía được xem là quan trọng nhất (nội thuộc), ngoài các tỉnh đó là ngoại thuộc.

Xem Thêm : CẤU TRÚC DA LỚP THƯỢNG BÌ (P2) – ỨNG DỤNG CHUYÊN SÂU CỦA KERATINOCYTE

Thời Lê Thánh Tông, năm Quang quẻ Thuận thứ 7 (1466), chia toàn quốc làm 12 Thừa tuyên, trong đó có 4 Thừa tuyên xung quanh kinh đô có yếu tố chỉ phương hướng so với kinh đô là: Kinh Bắc (ở phía bắc), Sơn Nam (ở phía nam), Sơn Tây (ở phía tây), Thành Phố Hải Dương trước kia là Hải Đông (ở phía đông). Thời Tây Sơn giữ nguyên đơn vị hành chính như thời Lê Hiển Tông, xung quanh kinh đô có 4 trấn: Kinh Bắc, Sơn Tây, Thành Phố Hải Dương, Sơn Nam Thượng (trong đó có phủ Lý Nhân). Khi bỏ trấn lập tỉnh, Minh Mạng thừa hưởng tư duy trước đó, lấy TP.HN làm trung tâm, về 4 phương có những tỉnh TP Bắc Ninh (Bắc), Sơn Tây (Tây), Thành Phố Hải Dương, sau thay thế bởi tỉnh HĐ Hà Đông (Đông) và Tỉnh Nam Định (Nam). Có nhẽ địa danh Hà Nam là sự việc thể hiện tư duy này, và như vậy tên tỉnh Hà Nam mang ý tức là vùng đất ở phía nam TP.HN.

Lúc thành lập năm 1890, Hà Nam gồm 5 huyện: Kim Bảng, Duy Tiên, Nam Xang (sau đổi thành Lý Nhân), Thanh Liêm, Bình Lục, tỉnh lỵ là Phủ Lý.

Lịch sử hình thảnh tỉnh Hà Nam
Hồ Tam Chúc nhìn từ trên cao. Ảnh: Trương Dũng

Trước năm 1890, toàn bộ vùng đất Hà Nam nằm dưới quyền thống trị của triều đình Huế, lúc ấy còn là một phủ Lý Nhân thuộc tỉnh TP.HN, do Tri phủ đứng đầu dưới quyền của Tổng đốc TP.HN. Khi thành lập tỉnh, hình thức chính quyền sở tại có sự thay đổi theo chính quyền sở tại bảo lãnh. Nắm toàn quyền bởi một viên Công sứ Pháp mang tên là Phera, Tuần vũ không được triều đình cử mà mọi việc do viên Bố chính đảm nhiệm. Mãi đến năm 1904, Hà Nam mới có Tuần vũ của Nam triều là Nguyễn Hữu Đắc. Nhân sự kiện tỉnh Hà Nam mới thành lập, ông nghè Nguyễn Văn Tính – Đốc học tỉnh Thành Phố Hải Dương đã có thơ chữ Hán đề vịnh, tạm dịch như sau:

Tỉnh Hà Nam mới được thành lập Thuộc vùng TP.HN đất Sơn Nam cũ Núi cao sông rộng, con người sớm có mặt Mảnh đất nền mới thêm làng, thôn, chợ, bến Chùa Tứ pháp nổi danh thần, Phật Ba dòng sông tô đậm công tích đế vương Núi Trinh còn lưu dấu cũ của công chúa triều Trần Chùa xưa ở núi Đọi do Vua Lý Thánh Tông xây dựng Viếng thăm thành lũy một thời binh lửa Trải bao thay đổi với giấc mơ vàng.

Bài thơ phác họa cô đọng nền cảnh địa văn hóa truyền thống Hà Nam. Đó là một phần đất đai TP.HN vừa mới được thành lập, trước đó thuộc trấn Sơn Nam. Nơi đây địa hình có núi, có sông, con người quần cư đông đúc từ rất sớm. Tỉnh mới ra đời lập thêm nhiều xóm làng, bến đò, chợ búa. Phật giáo hỗn dung với tín ngưỡng dân gian để thành tục thờ Tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) nổi tiếng với chùa Bà Đanh, Quế Lâm (Kim Bảng), chùa Bầu (thành phố Phủ Lý)… Ba dòng sông chảy qua hoặc chảy trọn vẹn trên đất Hà Nam (sông Hồng, sông Đáy, sông Châu) còn in lưu vết tích vua chúa các thời. Ngôi chùa trên núi Trinh Tiết (Thanh Hải, Thanh Liêm) nhắc nhở sự việc công chúa Bạch Hoa cuối thời Trần về tu tị nạn. Rồi ngôi chùa trên núi Đọi khởi đầu từ thời Lý Thánh Tông do Tướng quốc Dương Đạo Gia xây dựng. Rồi những vết tích thành lũy của Hồ Quý Ly trong cuộc kháng chiến chống quân Minh… Âm hưởng hoài cổ bao trùm, ý muốn nói mảnh đất nền này còn có căn rễ bền chắc, dù trải qua bao biến động “Biển xanh trở thành ruộng dâu” thì con người vẫn nuôi giấc mộng tốt lành. Tính từ lúc sau lúc được thành lập, tỉnh Hà Nam lại trải qua những thay đổi về cương vực, diên cách, đơn vị hành chính. Trước nhất là theo Nghị định ngày 24/10/1909 của Toàn quyền Đông Dương A.Wklobukwski, Hà Nam có châu Lạc Thủy (gồm 2 tổng) chuyển từ tỉnh Hòa Bình sang. Tiếp đó ngày 7/3/1913, Toàn quyền Đông Dương A. P. Sarraut ra Nghị định thay đổi gọi tỉnh Hà Nam thành Đại lý Hà Nam cho trực thuộc tỉnh Tỉnh Nam Định, đến ngày 31/3/1923 Toàn quyền Đông Dương F.M Baudouin lại cho ra đời Nghị định cho tách ra thành tỉnh Hà Nam như trước.

Trong kháng chiến chống Pháp, theo Nghị định của Cơ quan chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, 3 huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc của tỉnh Tỉnh Nam Định được đặt dưới quyền quản lý của tỉnh Hà Nam. Sau hòa bình lập lại trên miền Bắc, trước yêu cầu mới, tuần tự châu Lạc Thủy và 3 huyện trên của tỉnh Tỉnh Nam Định được trả về cho tỉnh cũ.

Năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng cuộc cuộc chiến tranh phá hoại trên miền Bắc. Để tập trung tăng cường sự lãnh đạo, chỉ huy, Quốc gia ta đã thống nhất một số tỉnh. Tỉnh Nam Hà (gồm có 2 tỉnh Hà Nam, Tỉnh Nam Định) được thành lập theo Quyết định số 103-TVQH ngày 21/4/1965 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Song song cũng giải thể huyện Mỹ Lộc của tỉnh Tỉnh Nam Định, cắt 9 xã về cho huyện Bình Lục, 6 xã cho thành phố Tỉnh Nam Định.

Ngày 27/12/1971, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa V, kỳ họp thứ hai Quyết định thành lập một số tỉnh mới, trong đó tỉnh Nam Hà được thống nhất với tỉnh Tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Rồi 16 năm tiếp theo, ngày 26/12/1991, trong kỳ họp của Quốc hội lại quyết định chia tách tỉnh Hà Nam Ninh thành hai tỉnh Nam Hà, Tỉnh Ninh Bình như cũ.

Lịch sử hình thảnh tỉnh Hà Nam
Một góc KCN Đồng Văn IV. Ảnh: Quốc Khánh

Sau hơn 32 năm thống nhất với tỉnh Tỉnh Nam Định rồi Tỉnh Ninh Bình, Hà Nam được tái lập trở lại với tên khai sinh theo Quyết nghị của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa VIII, Kỳ họp thứ 10, ngày thứ 6/11/1996 chia tỉnh Nam Hà thành 2 tỉnh Hà Nam, Tỉnh Nam Định. Huyện Mỹ Lộc cũ của tỉnh Tỉnh Nam Định được tái lập, nhận về 9 xã cũ thuộc huyện Bình Lục. Hiện nay, tỉnh Hà Nam có thành phố Phủ Lý, thị xã Duy Tiên và 4 huyện: Lý Nhân, Bình Lục, Thanh Liêm, Kim Bảng.

Hà Nam với chiều sâu lịch sử hào hùng, vùng đất từ rất sớm đã định hình cốt cách, con người, văn hóa truyền thống. Sự kiện thành lập tỉnh Hà Nam 130 năm trước có ý nghĩa thâm thúy, tạo sự một Hà Nam có căn tính riêng trong dân tộc bản địa Việt Nam thống nhất mà đa dạng. ___________

(1)Tổng Kim Lũ gồm 6 xã: Kim Lũ, Cổ Thị, Bỉnh Trung, Vũ Xá, Chân Ninh, Ngô Xá. Tổng Cổ Viễn gồm 9 xã: Cổ Viễn, Hưng Công, Sơ Lâm, Hàn Lâm, Cổ Mạo, Tử Thanh, An Đề, An Nội, An Lữ. Cắt 5 xã của tổng Vụ Bản là Văn Ấp, Thiết Khoán, Khê Câu, Sơn Lôi, Độ Việt. (2)Tổng Mộc Hoàn gồm 7 xã: Mộc Phàm, Hằng Dương, Nê Phố, Lãnh Trì, An Ninh, An Bảo, Nha Xá. Tổng Chuyên Nghiệp gồm 8 xã: Chuyên Nghiệp, Chuyên Thiện, Từ Đường, Quan Phố, Trung Gián, Thiện Mỹ, Yên Lệnh, Tường Lân.

Mai Khánh

You May Also Like

About the Author: v1000