Goodwill là gì? Bản chất, ý nghĩa và ví dụ Goodwill?

Chúng tôi rất vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Goodwill la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa và chiến lược hiệu quả. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi để cập nhật kiến thức mới.

Lợi thế thương nghiệp Goodwill là khái niệm chỉ xu hướng có lợi lúc các bên tham gia vào hoạt động thương nghiệp đã chiếm. Vậy quy định về goodwill là gì, thực chất, ý nghĩa và ví dụ goodwill được quy định thế nào.

Bạn Đang Xem: Goodwill là gì? Bản chất, ý nghĩa và ví dụ Goodwill?

1. Goodwill là gì?

Trong kế toán, Goodwill hay còn gọi là lợi thế thương nghiệp là một tài sản vô hình dung phát sinh khi người mua thâu tóm về một doanh nghiệp hiện có. Lợi thế thương nghiệp đại diện thay mặt cho những tài sản không thể nhận dạng riêng biệt. Lợi thế thương nghiệp không gồm có các tài sản có thể xác định được có khả năng bị tách hoặc phân chia khỏi đơn vị và được bán, ủy quyền, cấp phép, cho thuê hoặc trao đổi, riêng lẻ hoặc cùng với hợp đồng liên quan, tài sản có thể xác định hoặc trách nhiệm pháp lý bất kể đơn vị có ý định làm như vậy. Lợi thế thương nghiệp cũng không gồm có các quyền theo hợp đồng hoặc các quyền hợp pháp khác bất kể đó là các quyền có thể ủy quyền hoặc tách rời khỏi đơn vị hay các quyền và nghĩa vụ khác.

Lợi thế thương nghiệp cũng chỉ đã chiếm thông qua một thương vụ làm ăn thâu tóm về; nó không thể được tự tạo. Ví dụ về các tài sản có thể xác định được là thiện chí gồm có tên thương hiệu của tổ chức, các quan hệ với khách hàng, tài sản vô hình dung thẩm mỹ và nghệ thuật và bất kỳ bằng sáng chế hoặc công nghệ độc quyền nào. Lợi thế thương nghiệp vượt quá giá trị của khoản “cân nhắc mua” (số tiền được trả để sở hữu tài sản hoặc hoạt động kinh doanh) trên giá trị ròng rã của tài sản trừ đi các số tiền nợ phải trả. Nó được phân loại là tài sản vô hình dung trên bảng cân đối kế toán, vì nó không thể được nhìn thấy cũng như không được chạm vào. Theo US GAAP và IFRS, lợi thế thương nghiệp không bao giờ được khấu hao vì nó được xem như là có thời kì hữu dụng vô thời hạn.

Thay vào đó, ban giám đốc chịu trách nhiệm định giá lợi thế thương nghiệp thường niên và xác định xem liệu có cần giảm giá hay là không. Nếu giá trị thị trường hợp lý thấp hơn giá gốc (lợi thế thương nghiệp được mua về để làm gì), thì khoản giảm giá phải được ghi nhận để mang nó xuống giá trị thị trường hợp lý. Tuy nhiên, phần tăng thêm của giá trị thị trường hợp lý sẽ không còn được hạch toán vào văn bản báo cáo tài chính. Tuy nhiên, các tổ chức tư nhân ở Hoa Kỳ có thể chọn phân bổ lợi thế thương nghiệp trong khoảng chừng thời kì mười năm hoặc thấp hơn theo một phương án kế toán từ Hội đồng Tổ chức Tư nhân của FASB.

Xem Thêm : Halloween là ngày gì? Nguồn gốc, ý nghĩa lễ hội hóa trang Halloween

Goodwill Industries cũng tuyển dụng các cựu chiến binh và member thiếu học vấn, kinh nghiệm thao tác làm việc hoặc đối mặt với những thử thách về việc làm. Goodwill được tài trợ bởi một mạng lưới lớn các cửa hàng bán lẻ tiết kiệm ngân sách cũng hoạt động như các tổ chức phi lợi nhuận.

– Ý nghĩa văn minh: Lợi thế thương nghiệp là một loại tài sản vô hình dung đặc biệt quan trọng đại diện thay mặt cho phần giá trị toàn bộ doanh nghiệp mà không thể được quy cho thu nhập khác tạo ra tài sản kinh doanh, hữu hình hay vô hình dung.

Ví dụ: một tổ chức phần mềm tư nhân có thể có tài sản ròng rã (chủ yếu gồm có các thiết bị và / hoặc tài sản linh tinh và giả sử không có nợ) trị giá 1 triệu đô la, nhưng giá trị tổng thể của tổ chức (gồm có khách hàng và vốn trí tuệ) được định giá là 10 triệu đô la. Bất kỳ ai mua tổ chức này sẽ đặt trước 10 triệu đô la trong tổng tài sản đã chiếm, bao gồm một triệu đô la tài sản vật chất và 9 triệu đô la tài sản vô hình dung khác. Và bất kỳ sự cân nhắc nào được trả vượt quá 10 triệu đô la sẽ tiến hành xem như là thiện chí. Trong một tổ chức tư nhân, lợi thế thương nghiệp không có mức giá trị xác định trước lúc mua lại; độ lớn của nó phụ thuộc vào hai biến khác theo khái niệm. Trái lại, một tổ chức giao dịch thanh toán công khai phải tuân theo một quá trình định giá thị trường liên tục, vì vậy lợi thế thương nghiệp sẽ luôn rõ ràng.

Mặc dù một doanh nghiệp có thể góp vốn đầu tư để nâng cao tiếng tăm của mình, bằng phương pháp quảng cáo hoặc đảm nói rằng sản phẩm của mình có chất lượng sản phẩm và dịch vụ cao, nhưng các ngân sách đó không thể được vốn hóa và thêm vào lợi thế thương nghiệp, về mặt kỹ thuật là một tài sản vô hình dung. Lợi thế thương nghiệp và tài sản vô hình dung thường được liệt kê thành các khoản mục riêng biệt trên bảng cân đối kế toán của tổ chức.

2. Thực chất, ý nghĩa và ví dụ Goodwill:

– Các loại thiện chí: Có hai loại thiện chí, Tổ chức (Doanh nghiệp) hoặc Chuyên nghiệp (Thành viên). Lợi thế thương nghiệp của tổ chức có thể được mô tả là giá trị vô hình dung sẽ tiếp tục có mức giá trị khi đối chiếu với doanh nghiệp mà không cần sự hiện hữu của chủ sở hữu cụ thể. Lợi thế thương nghiệp nghề nghiệp có thể được mô tả là giá trị vô hình dung chỉ đã chiếm nhờ nỗ lực hoặc uy tín của chủ sở hữu doanh nghiệp. Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại lợi thế thương nghiệp là liệu lợi thế thương nghiệp có thể ủy quyền khi xuất bán cho bên thứ ba mà không có thỏa thuận hợp tác không cạnh tranh hay là không.

Xem Thêm : Loại Bỏ Web Companion ( Lavasoft Là Gì Và Có Nên Xóa Nó Không?

– Lịch sử dân tộc và mua hàng so với nhóm thị hiếu: Trước kia, các tổ chức có thể cấu trúc nhiều giao dịch thanh toán thâu tóm về để xác định sự lựa chọn giữa hai phương pháp kế toán để ghi nhận thống nhất kinh doanh: kế toán mua hoặc kế toán gộp các khoản lãi. Phương pháp gộp lãi phối hợp giá trị ghi sổ của tài sản và nợ phải trả của hai tổ chức để tạo ra bảng cân đối kế toán mới của khá nhiều tổ chức thống nhất. Do đó, nó không phân biệt được ai đang mua ai. Nó cũng không ghi mức giá mà tổ chức thâu tóm về phải trả cho việc thâu tóm về. Tính từ lúc năm 2001, Nguyên tắc kế toán được chấp thuận đồng ý chung của Hoa Kỳ (FAS 141) không còn được cho phép phương pháp gộp lãi nữa.

– Phân bổ và kiểm soát và điều chỉnh giá trị ghi sổ: Lợi thế thương nghiệp không còn được phân bổ theo US GAAP (FAS 142). FAS 142 được phát hành vào tháng 6 năm 2001. Các tổ chức phản đối việc loại bỏ tùy chọn sử dụng lợi ích gộp, vì vậy khoản khấu hao đã được Ban Chuẩn mực Kế toán Tài chính xóa sổ như một nhượng bộ. Tính từ lúc 2005-01-01, nó cũng tiếp tục cấm theo những Chuẩn mực Văn bản báo cáo Tài chính Quốc tế. Giờ đây, thiện chí chỉ có thể bị suy giảm theo những tiêu chuẩn GAAP này.

Thay vì khấu trừ giá trị lợi thế thương nghiệp thường niên trong một khoảng chừng thời kì. Sau tối đa 40 năm, các tổ chức hiện phải xác định giá trị hợp lý của khá nhiều đơn vị văn bản báo cáo, sử dụng giá trị ngày nay của dòng tiền trong tương lai và so sánh với giá trị ghi sổ của chúng (giá trị ghi sổ của tài sản cộng với lợi thế thương nghiệp trừ đi nợ phải trả.) Nếu giá trị hợp lý là nhỏ hơn giá trị ghi sổ (bị suy giảm), thì giá trị lợi thế thương nghiệp cần giảm xuống để giá trị ghi sổ bằng giá trị hợp lý. Khoản lỗ do tổn thất được văn bản báo cáo dưới dạng một mục hàng riêng biệt trên văn bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và giá trị lợi thế thương nghiệp đã điều động chỉnh mới được văn bản báo cáo trong bảng cân đối kế toán.

– Khi doanh nghiệp bị rình rập đe dọa mất khả năng tính sổ, các nhà góp vốn đầu tư sẽ khấu trừ lợi thế thương nghiệp từ bất kỳ phép tính nào về vốn CP còn sót lại vì nó không có mức giá trị bán lại.

Cách xử lý kế toán khi đối chiếu với lợi thế thương nghiệp vẫn còn gây tranh cãi, trong cả ngành kế toán và tài chính, vì về cơ bản, đó là một cách xử lý được những kế toán sử dụng để bù đắp cho thực tế là các doanh nghiệp lúc mua lại được định giá dựa trên ước tính về dòng tiền trong tương lai và giá thương lượng. của người mua và người bán, và không dựa trên giá trị hợp lý của tài sản và nợ phải trả mà người bán sẽ chuyển giao. Điều này tạo ra sự không khớp giữa tài sản được văn bản báo cáo và thu nhập ròng rã của khá nhiều tổ chức đã phát triển mà không mua các tổ chức khác và những tổ chức có.

Mặc dù các tổ chức sẽ tuân theo những quy tắc do Hội đồng chuẩn mực kế toán quy định, nhưng không có cách nào đúng đắn về cơ bản để xử lý sự không phù hợp này theo phạm vi về lập và trình bày văn bản báo cáo tài chính hiện hành. Do đó, việc hạch toán lợi thế thương nghiệp sẽ dựa trên các quy tắc, và các quy tắc này đã thay đổi và có thể tiếp tục thay đổi theo định kỳ cùng với sự thay đổi của khá nhiều thành viên trong Hội đồng chuẩn mực kế toán. Các quy tắc hiện hành kiểm soát và điều chỉnh việc kế toán đối xử với lợi thế thương nghiệp mang tính chủ quan cao và có thể dẫn đến ngân sách rất cao, nhưng có mức giá trị hạn chế khi đối chiếu với các nhà góp vốn đầu tư.

You May Also Like

About the Author: v1000