Tìm hiểu về Hệ thống thông tin an toàn và cứu nạn toàn cầu GMDSS

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Gmdss la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Tìm hiểu về Mạng lưới hệ thống thông tin an toàn và cứu nạn toàn cầu GMDSS

Bạn Đang Xem: Tìm hiểu về Hệ thống thông tin an toàn và cứu nạn toàn cầu GMDSS

Năm 1979, Tổ chức hàng hải quốc tế IMO (International Maritime Organization) đã tổ chức hội nghị về vấn đề tìm kiếm và cứu nạn trên biển khơi. Hội nghị này thông qua công ước quốc tế về tìm kiếm và cứu nạn trên biển khơi SAR-1979. Với mục tiêu là thành lập một kế hoạch toàn cầu cho công việc tìm kiếm và cứu nạn trên biển khơi, hội nghị đã yêu cầu phát triển một khối hệ thống tin cấp cứu và an toàn hàng hải toàn cầu với những quy định bắt buộc về thông tin liên lạc để khiến cho công việc tìm kiếm cứu nạn đạt hiệu quả cao.

Tm_hiu_v_H_thng_thng_tin_an_ton Cùng với sự phối hợp của rất nhiều tổ chức quốc tế khác ví như Liên minh viễn thông quốc tế ITU, Tổ chức Inmarsat, khối hệ thống vệ tinh tìm kiếm cứu nạn COSPASS- SARSAT… đến năm 1988 một khối hệ thống thông tin đã được những nước thành viên IMO, trong đó Việt Nam là một thành viên đầy đủ, thông qua dưới dạng sửa đổi và bổ sung Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng trên biển khơi SOLAS- 74 và được gọi là SOLAS – 74/88, khai sinh ra khối hệ thống thông tin an toàn và cứu nạn hàng hải toàn cầu (Global Maritime Distress and Safety System- GMDSS).

GMDSS là khối hệ thống thông tin mới phục vụ cho mục tiêu an toàn và cứu nạn Hàng Hải toàn cầu được tổ chức Hàng Hải quốc tế IMO đề xướng và phát triển, cùng với sự tham gia của rất nhiều nước thành viên còn tồn tại sự phối hợp của nhiều tổ chức quốc tế khác. Đặc trưng của khối hệ thống là mang tính toàn cầu, tính tổng hợp và tính mới.

– Tính toàn cầu của khối hệ thống: Có thể tìm kiếm và cứu nạn ở mọi vùng biển trên thế giới.

Xem Thêm : Jamja là gì? sentayho.com.vn trang cung cấp mã giảm giá, coupon, voucher số 1

– Tính mới của khối hệ thống: Ra đời 1988.

– Tính tổng hợp: là khối hệ thống gồm nhiều tổ chức tham gia.

Đặc điểm chính của khối hệ thống:

– Phân chia vùng thông tin theo cự ly hoạt động của tàu, từ đó xác định thiết bị sẽ tiến hành lắp ráp trên tàu cùng với tần số và phương thức thông tin nhất định.

– Không sử dụng các tần số cấp cứu 500kHz bằng vô tuyến điện báo và tần số 2182kHz bằng vô tuyến điện thoại cảm ứng thông minh để báo động và gọi cấp cứu mà dùng kỹ thuật gọi chọn số DSC – DIGITAL SELECTIVE CALLING – với những tần số thích hợp giành riêng cho báo động và gọi cấp cứu.

– Những thông tin ở cự ly xa sẽ tiến hành đảm bảo thông qua thiết bị thông tin vệ tinh và các thiết bị hoạt động trên dải sóng ngắn HF.

Xem Thêm : Router Wifi Multicast State Là Gì ? Chức Năng Của Router Wifi

– Việc trực canh cấp cứu, thu nhận thêm những thông tin an toàn hàng hải và dự báo thời tiết bằng phương thức tự động hóa.

– Sử dụng kỹ thuật gọi chọn số DSC, truyền chữ trực tiếp băng hẹp NBDP và vô tuyến điện thoại cảm ứng thông minh trong thông tin liên lạc. Bỏ không dùng vô tuyến điện báo MORSE do đó không nhất thiết phải sử dụng các sĩ quan VTĐ chuyên nghiệp.

Posted by ruembangtiengsong at 08:44

Labels: Mạng lưới hệ thống thông tin cấp cứu và an toàn hàng hải toàn cầu GMDSS

Cấu trúc của khối hệ thống thông tin an toàn và cứu nạn toàn cầu GMDSS gồm có hai thành phần đó là: Mạng lưới hệ thống thông tin vệ tinh và khối hệ thống thông tin mặt đất.

Mạng lưới hệ thống thông tin vệ tinh: Mạng lưới hệ thống thông tin vệ tinh là một đặc trưng quan trọng trong khối hệ thống GMDSS. Mạng lưới hệ thống thông tin vệ tinh trong khối hệ thống GMDSS gồm khối hệ thống vệ tinh INMARSAT và khối hệ thống vệ tinh COSPAS – SARSAT. Mạng lưới hệ thống thông tin vệ tinh INMARSAT Với những vệ tinh địa tĩnh hoạt động trên dải tần 1,5 – 1,6 Mhz (băng L) cung cấp cho những tàu có lắp ráp trạm đài tàu vệ tinh một phương tiện báo động và gọi cấp cứu. Nó có khả năng thông tin 2 chiều bằng các phương thức thoại và telex. Ngoài ra các vệ tinh INMARSAT còn được sử dụng như một phương tiện chính để thông tin các bức điện an toàn Hàng Hải MSI – MARITIME SAFETY INFORMATION – cho những vùng không được phủ sóng bởi dịch vụ NAVTEX. Ngày nay khối hệ thống thông tin vệ tinh gồm có những thiết bị sau: – INMARSAT – A: là khối hệ thống thông tin Inmarsat trước hết được đưa vào hoạt động thương nghiệp (năm 1982). Nó sử dụng kỹ thuật tương tự và cung cấp các dịch vụ truyền số liệu. – INMARSAT – B: ra đời năm 1994 là thiết bị thông tin di động vệ tinh tiến bộ sử dụng công nghệ số, kế tục sự phát triển của INMARSAT – A. Nó cung cấp các dich vụ của INMARSAT – A nhưng kích thước gọn nhẹ và thao tác hiệu quả hơn INMARSAT – A. – INMARSAT – C: là thiết bị thông tin di động vệ tinh ra đời năm 1993. Cung cấp các dịch vụ truyền số liệu và telex hai chiều với tốc độ 600 bít/s. INMARSAT – C đơn giản, giá thành rẻ với những Anten vô hướng nhỏ, gọn. – INMARSAT – E: là EPIRB vệ tinh hoạt động trên băng L qua khối hệ thống Inmarsat được sử dụng như một phương tiện báo động cứu nạn cho những tàu hoạt động trong vùng bao trùm của vệ sinh Inmarsat. Inmarsat – E sử dụng vệ tinh thế hệ 2 và kỹ thuật số nó được cho phép xử lý tới 20 cuộc gọi báo động song song trong khoảng tầm thời kì 10 phút, với khả năng thao tác nhân lực hoặc tự động hóa update thông tin về vị trí vào EPIRB. EPIRB vệ tinh băng L có thể kích hoạt nhân lực hoặc tự động hóa khi tàu chìm sau khoản thời gian kích hoạt nó sẽ phát bức điện báo động cấp cứu với nội dung gồm có thông tin về nhận dạng, vị trí và một số thông tin cấp thiết khác phục vụ cho việc tìm kiếm và cứu nạn, thông tin được phát theo phương thức trải thời kì. Sau khoản thời gian được vệ tinh Inmarsat chuyển tiếp, tín hiệu báo động cấp cứu được đưa tới trạm đài bờ LES bằng tần số đã được ấn định riêng và được khối hệ thống máy tính xử lý tín hiệu để nhận dạng và lời giải bức điện. Bức điện báo động cấp cứu sau này được gửi cho trung tâm phối hợp cứu nạn thích hợp. – INMARSAT – M: là sự việc phát triển tiếp theo của Inmarsat – B nhưng có kích thước gọn nhỏ và giá thành rẻ hơn. Các dịch vụ thông tin trong Inmarsat -M chỉ có thoại, fax và truyền tài liệu. – INMARSAT – mini M: giống Inmarsat – M nhưng sử dụng vệ tinh thế hệ 3. – Máy thu gọi nhóm tăng cường EGC – ENHAND GROUP CALLING là máy thu chuyên sử dụng để thu các thông tin an toàn và cứu nạn hàng hải trong khối hệ thống vệ tinh Inmarsat. Nó được thiết kế để đủ sức tự động hóa trực canh liên tục trong mạng Safety NET, phát trên khối hệ thống vệ tinh Inmarsat. Máy thu EGC có thể được tích hợp trong các trạm đài tàu Inmarsat – A,B,C hoặc được thiết kế độc lập với một Anten thu riêng. Máy thu EGC là thiết bị yêu cầu phải được trang bị trong khối hệ thống GMDSS khi đối chiếu với các tàu hoạt động ngoài vùng phủ sóng NAVTEX quốc tế. Mạng lưới hệ thống thông tin vệ sinh COSPAS – SARSAT Đây là một khối hệ thống thông tin vệ tinh trợ giúp tìm kiếm và cứu nạn, được thiết lập để xác định vị trí của thiết bị EPIRB trên tần số 121.5 MHz hoặc 406 MHz. Mạng lưới hệ thống COSPAS – SARSAT được sử dụng cho tất cả những tổ chức trên thế giới có trách nhiệm tìm kiếm và cứu nạn trên biển khơi, trên không và trên lục địa. Đây là một khối hệ thống vệ tinh mang tính quốc tế do các tổ chức vệ tinh của rất nhiều nước Canada, Pháp, Mỹ và Liên Xô cũ thiết lập. Mạng lưới hệ thống được sử dụng phục vụ cho một số lượng lớn những hoạt động tìm kiếm và cứu nạn toàn cầu. Mạng lưới hệ thống thông tin mặt đất Mạng lưới hệ thống thông tin mặt đất sử dụng DSC là công nghệ cơ bản để thực hiện các thông tin an toàn và cứu nạn. Tiếp sau cuộc gọi DSC có thể thực hiện bằng phương thức NBDP, Telex, thoại. Trong khối hệ thống thông tin mặt đất gồm có các thiết bị chính sau: – Thiết bị thông tin thoại : Thiết bị thông tin thoại trong khối hệ thống GMDSS thao tác trên các dải sóng MF, HF và VHF ở các cơ chế J3E, H3E (cho tần số cấp cứu 2182 KHz) và G3E. Thiết bị thông tin thoại này cũng được dùng để làm gọi cấp cứu, nguy cấp và an toàn. Nó là thiết bị thông tin chính phục vụ cho thông tin hiện trường giữa một tàu bị nạn với những đơn vị làm nhiệm vụ cứu nạn. Trên mỗi dải tần thao tác của thiết bị thông tin thoại đều phải sở hữu ít nhất một tần số cấp cứu quốc tế giành cho thông tin cấp cứu. Song song thiết bị này sẽ đáp ứng các dịch vụ thông tin công cộng khác trong nghiệp vụ thông tin lưu động hàng hải. – Thiết bị gọi chọn số DSC : Thiết bị gọi chọn số DSC là một phần công nghệ quan trọng của khối hệ thống GMDSS trên các dải sóng HF,MF và VHF/ DSC. Thiết bị này được sử dụng để phát báo động cấp cứu từ tàu cũng như phát xác nhận điện cấp cứu từ bờ, thiết bị này được cả tàu và bờ dùng để làm phát chuyển tiếp các bức điện báo động cấp cứu hoặc phát các cuộc gọi nguy cấp và an toàn. Ngoài ra các thiết bị DSC cũng cần được được cả tầu và bờ dùng để làm bắt liên lạc trong thông tin thông thường. Việc thử nghiệm khối hệ thống DSC đã được phối hợp tiến hành suốt trong năm từ 1982 – 1986 bởi tổ chức CCIR trên tất cả những dải sóng MF, HF và VHF. Thiết bị DSC có thể là các thiết bị độc lập hoặc được kết phù hợp với các thiết bị thoại trên các băng tần HF, MF và VHF. Thủ tục khai thác thiết bị DSC đã được thống nhất và quy định rõ trong các khuyến nghị của tổ chức liên minh viễn thông quốc tế ITU. Thành phần cơ bản của một bức điện DSC gồm có : Nhận dạng của đài (hoặc nhóm đài) đích, tự nhận dạng trạm phát và nội dung bức điện, gồm có những thông tin ngắn gọn cơ bản nhất để chỉ ra mục tiêu cuộc gọi. – Thiết bị NBDP : Thiết bị NBDP – thiết bị truyền chữ trực tiếp băng hẹp – là một phòng ban cấu thành khối hệ thống GMDSS để tương trợ trong thông tin cấp cứu, nguy cấp và an toàn. Ngoài ra các thiết bị NBDP nhằm đáp ứng các dịch vụ thông tin trên các dải sóng VTĐ mặt đất giữa tàu với bờ và trái lại. Thiết bị NBDP hoạt động trên các dải sóng MF và HF. Với những phương thức thông tin ARQ dùng để làm trao đổi thông tin giữa hai đài và FEC dùng để làm phát các thông tin có tính chất thông tin tới nhiều đài. Trên mỗi dải sóng VTĐ hàng hải đều được thiết kế một tần số giành riêng cho cấp cứu, nguy cấp an toàn bằng thiết bị NBDP.

Mũi Né (sưu tầm và giới thiệu)

You May Also Like

About the Author: v1000