Khái niệm diễn ngôn – Trần Đình Sử

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Dien ngon la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog để cập nhật kiến thức mới nhất.

Khái niệm diễn ngôn

Bạn Đang Xem: Khái niệm diễn ngôn – Trần Đình Sử

Trần Đình Sử

Trong thời kì gần đây trong nghiên cứu văn học, xã hội học, khái niệm diễn ngôn đã được sử dụng nhiều, song nhìn kĩ các tài liệu tiếng Việt khi sử dụng khái niệm này hiện còn tồn tại phần lúng túng. Để tham khảo tôi tạm nêu ra mấy nội dung cơ bản của khái nệm diễn ngôn như sau đây.

Xem Thêm : Điện Di Trong Spa Là Gì? Điện Di Chăm Sóc Da Có Tốt Không?

1.Hiểu tổng quát, diễn ngôn là thực tiễn giao tiếp của con người trong xã hội. Nhấn mạnh vấn đề thực tiễn giao tiếp xã hội để phân biệt với lời nói thành viên. Mọi lời nói thành viên đều phụ thuộc vào diễn ngôn xã hội. Hoạt động diễn ngôn xã hội thể hiện một trạng thái tiếng nói, tri thức, quyền lực trong xã hội của diễn ngôn này mà các thành viên đều phụ thuộc vào. Cụ thể diễn ngôn có những đặc điểm sau đây.

2.Diễn ngôn là cách nói năng, phương thức biểu lộ về con người, thế giới,về các sự việc trong đời sống. Diễn ngôn biểu hiện thành hình thức tiếng nói, như các cuộc thảo luận, tranh tụng, phát biểu, diễn thuyết, diễn đạt thành khía niệm, cụm từ, mạng lưới hệ thống các từ ngữ, các thuật ngữ, phạm trù, các từ then chốt, thể hiện mạng lưới hệ thống tri thức thịnh hành, chân lí phổ quát trong xã hội. Do đó nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu tiếng nói. Nhưng diễn ngôn không phải là cách nói thế nào trong tương quan với nói cái gì, không phải là hình thức. Diễn ngôn là hiện tượng kỳ lạ tư tưởng. Diễn ngôn không phải là phương tiện diễn đạt, mà là bản thể tư tưởng, bản thân tư tưởng, mọi tư tưởng đều biểu hiện thành diễn ngôn. Ngoài diễn ngôn, tư tưởng không tồn tại. Do đó nghiên cứu diễn ngôn đó chính là nghiên cứu tư tưởng. Không phải tư tương trong dạng lí thuyết thuần túy, mà tư tưởng trong dạng thức thực tiễn, được hiểu trong giao tiếp hàng ngày. Ví dụ chủ nghĩa Marx trong lí thuyết thuần túy với chủ nghĩa Marx trong diễn ngôn các thời kì và ở các nước là mẩu truyện khác nhau. Vì thế nghiên cứu diễn ngôn đó chính là nghiên cứu xã hội học tư tưởng, nghiên cứu ý thức hệ xã hội, nghiên cứu lịch sử dân tộc tư tưởng. Chính trong ý nghĩa này M. Bakhtin nói diễn ngôn là biểu hiện ý thức hệ.

3.Chức năng của diễn ngôn là kiến tạo bức tranh thế giới bằng tiếng nói, là gọi tên các sự vật, hiện tượng kỳ lạ. Là thực tiễn giao tiếp, diễn ngôn không phải đi tìm bản thể thế giới, xem thế giới là vật chất hay ý thức, là kết cấu của tử vi ngũ hành hay của nguyên tử. Diễn ngôn cũng không phải tiếp cận thế giới theo lối nhận thức luận, xem con người dân có khả năng nhận thức chân lí ra làm sao. Chức năng diễn ngôn là kiến tạo sự thực, chân lí. Ví dụ diễn ngôn tòa án là dựa vào tri thức pháp luật, hồ sơ để kiến tạo nên tội của tội phạm để khép vào hình phạt, mặc dù có thể đúng, có thể oan, sai, có thể giảm nhẹ cho đối tượng người sử dụng nào đó. Đó là chân lí của tòa. Ví dụ diễn ngôn phê bình là kiến tạo nên giá trị hay tội lỗi của một cuốn sách nào đó, dựa vào quyết nghị hay pháp luật hay vào lí thuyết nào đó, còn chuyện sách ấy có mức giá trị thế nào là việc khác. Diễn ngôn văn học, chính trị, triết học, pháp luật, tôn giáo, đạo đức, mĩ học…đều như vậy.Vì vây, diễn ngôn có tính đấm đá bạo lực xã hội, nó không bao giờ đồng nhất được với chân lí mà có tầm khoảng cách với chân lí.

4.Diễn ngôn kiến tạo bức tranh thế giới, sự thực, chân lí theo những quy tắc, cơ chế của nó, ví như thẩm quyền của chủ thể, của văn cảnh, của quan hệ giao tiếp, của chiến lược, trật tự nhất định Dựa vào quyền lực nó có thể là áp đặt, cưỡng bức, bắt học tập, cải tạo, có thể trao đổi, hội thoại, hoặc có thể trình bày, giảng giải để tiếp nhận. Diễn ngôn có thể vẽ ra một bức tranh rất xấu, đen tối về một đối tượng người sử dụng và bức tranh tươi sáng về đối tượng người sử dụng khác, bất chấp thực tế nó thế nào. Có cái được chấp nhận nói, có cái lại quán triệt, không khuyến khích, có cái lại chủ trương. Vì thế nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu các cơ chế kiến tạo đó, xem nó là tiếng nói của người nào, ai là chủ của tiếng nói.

Xem Thêm : Đặt tên con gái họ Phạm: 100+ gợi ý mang đến nhiều tốt đẹp cho số phận

5.Diễn ngôn là hiện tượng kỳ lạ giao tiếp nên nó là tiếng nói của một chủ thể quyền lực trong xã hội ấy. Đúng như Karl Marx đã nói, tư tưởng thống trị trong một xã hội là tư tưởng của giai cấp thống trị, diễn ngôn là tiếng nói của kẻ chiếm vị thế thống trị về tư tưởng. Các chủ thể diễn ngôn do vị thế khác nhau mà có trật tự diễn ngôn khác nhau, để thuyết phục họ có chiến lược diễn ngôn khác nhau, từ tuyên bố, ra lệnh, cho tới hội thoại, trao đổi hay trình bày, diễn giải ý kiến của mình. Như vậy nghiên cứu diễn ngôn là đi tìm xem những chủ thể xã hội đứng đằng sau diễn ngôn, xem đó là tiếng nói của người nào, vào thời khắc nào.

6.Diễn ngôn là hiện tượng kỳ lạ siêu văn bản, liên văn bản, nó thể hiện trong các văn bản nhưng không đồng nhất với văn bản, không giới hạn trong các văn bản. Nó gắn với chủ thể diễn ngôn, song không có tác giả cụ thể. Diễn ngôn là hiện tượng kỳ lạ xã hội, có tính chỉnh thể, tính liên tục, tính thống nhất, tính mạng lưới hệ thống. Nó gắn với ý thức hệ xã hội, người ta có thể dung ý thức hệ để gọi tên diễn ngôn: diễn ngôn tư sản, vô sản, diễn ngôn mác xit, diễn ngôn tiến bộ, hậu tiến bộ. Nó cũng gắn với những ngành nghề tri thức, cho nên có thể lấy ngành nghề tri thức mà gọi tên nó: ví dụ diễn ngôn văn học, diễn ngôn vật lí, diễn ngôn thi ca, diễn ngôn tính dục. Diễn ngôn do đó có tính chỉnh thể hữu hạn. Do đó nghiên cứu diễn ngôn không thoát li văn bản cụ thể, nhưng không giới hạn trong bất kì văn bản nào, bởi tính liên văn bản của nó, không câu nệ vào văn bản cụ thể, mà hướng đến tổng thể các cơ chế chung trong việc kiến tạo nên diễn ngôn.

Ý nghĩa của phạm trù diễn ngôn là nó nêu ra một hệ hình nghiên cứu mới, phân biệt vơi bản thể luận và nhận thức luận. Theo hệ hình bản thể luận, người ta nghiên cứu cội nguồn của thế giới là gì, vật chất hay ý thức, từ này mà nêu ra vấn đè thứ nhất của triết học, quy các triết thuyết hoặc vào duy vật hoặc vào duy tâm. Hoặc bản thể thế giới là kinh nghiệm. Hệ hình thứ hai là nhận thức luận, tri thức luận, nghiên cứu khả năng nhận thức chân lí của con người, tiêu chí nhận thức là đúng, sai, thật, giả, khoa học, phi khoa học. Các hệ hình nêu trên vẫn có mức giá trị của chúng. Hệ hình diễn ngôn nghiên cứu phương thức kiến tạo chân lí, bức tranh thế giới của con người. Trong diễn ngôn người ta cũng phân biệt thật giả, đúng sai, nhưng theo một tiêu chí khác hoàn toàn không phải thực sự là khoa học, khách quan. Diễn ngôn là hoạt động giao tiếp trực tiếp tạo ra cái hiện thực mà con người sống trong đó, tin, yêu, căm giận ở trong đó. Diễn ngôn kiến tạo nên hiện thực của con người. Nghiên cứu diễn ngôn giúp tất cả chúng ta nắm thêm một chiều kích nữa, rất thực tế của con người.

Thực tiễn diễn ngôn và thực tiễn sinh sản, sáng tạo, khám phá vật chất là hai thực tiễn cơ bản của con người. Thực tiễn kiểm nghiệm chân lí là thực tiễn vật chất, chư không phải là thực tiễn diễn ngôn. Chân lí diễn ngôn chưa hẳn là chân lí thực sự.

3/1/2015

You May Also Like

About the Author: v1000