ĐẠP TUYẾT TẦM MAI NGHĨA LÀ GÌ

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Dap tuyet tam mai nghia la gi và hy vọng rằng nó sẽ hữu ích cho bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với các chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng rằng thông tin mà chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật những kiến thức mới nhất.

Buổi sáng mùa đông giá rét năm ấy, tu viện Thiên Môn, phía Bắc thị xã Odeti, chợt xuất hiện một người khách lạ. Không biết y bao nhiêu tuổi nhưng nom đã già cỗi lắm. Lão vác một nhánh mai to nặng và thò tay giật chuông cổng tu viện.Bạn đang xem: đạp tuyết tầm mai tức thị gì

Bạn Đang Xem: ĐẠP TUYẾT TẦM MAI NGHĨA LÀ GÌ

Lúc ấy tuyết đang rơi, đường sá phủ từng đống tuyết tròn, nhấp nhô như mộ địa, không một bóng người lai vãng. Gió Tây Bắc ào ào thổi qua, tung tuyết rát mặt. Trời nặng nề, đục, đầy vẻ hăm dọa, có nhẽ phải lạnh đến mươi độ âm.

Người khách trùm chiếc áo bông đã tang thương và phong trần quá đỗi. Đôi ủng da đã và đang xác xơ và điêu linh như vậy. Không biết y đã dẫm qua bao nhiêu sông núi mới đến được nơi này.

Một nhà sư to, cao, cà-sa trùm kín người, tay đung đưa chùm chìa khóa, dáng tức bực ra mở cổng tu viện. Y chững lại. Ở đâu ra người khách kỳ quái này? Và nhành mai như thần thông diệu hóa thế kia? Làm thế nào lại đã đạt được nhành mai đương độ khi tuyết băng như đang trùm lấp xứ này, cây cối chỏng chơ những que cọng vươn lên từ biển tuyết thế kia thì chưa hứa hứa hẹn một mầm xanh nào cả. Giữa cái trơ trụi của mùa đông giá rét, nổi trội lên nhành mai mơn nõn, điểm loáng thoáng mấy nụ vàng tươi như thử thách và bỡn cợt với hóa công! Người khách – cái lão già khú đế kỳ khôi này -rõ ràng là đang đứng đó thôi: Bất động, lạnh lùng, hai con mắt sáng đục, lờ ngờ nhưng thản nhiên. Đấy là việc ngơi nghỉ của con ngựa già dẻo dai, hiển hách sau phần đường xa lao nhọc.

– Quý tôn ông hẳn là không gõ lầm cửa đấy chứ ạ? Nhà sư dè dặt cất tiếng hỏi.

– Không lầm đâu! Người khách đáp, giọng nhỏ, nhưng luồng hơi dường như đi xoáy vào tai.

Nhà sư thất sắc, thụt lùi một bước, lát sau mới trấn tĩnh lại:

– Xin cho bần đạo hay là vào tu viện để gặp ai? Có việc gì?

Người khách như thoáng mỉm cười rồi giọng nói như làn gió ngày thu mát mẻ:

– Nó như vậy này! Khách nói như phân trần – lão sẽ làm phiền nhà chùa một tí thôi. Đại đức ạ! Lão xin được cắm nhành mai này vào trong 1 chiếc lọ thích hợp, mà đúng là thích hợp đấy nhé! Lão nhấn mạnh vấn đề rồi ngước nhìn trời – Tiết dương nguyên cũng không còn bao chày, có một gốc mai đúng độ để nhà chùa thưởng xuân, cũng là một nhã thú đấy chứ? Chẳng hay có trở ngại gì không ạ?

– Dạ không! Nhà sư vội đáp nhưng có vẻ ngần ngừ – sao lại sở hữu chuyện kỳ lạ như vậy? Bần đạo có nghe nhầm chăng? Có điều kiện kèm theo gì chăng?

Người khách lại tủm tỉm cười, cất giọng dịu dàng:

– Đại đức ạ! Nếu đây là việc cúng dường thì hẳn là tốt chứ?

Xem Thêm : BlueStacks là gì? Ưu điểm và cách tải phần mềm giả lập Android BlueStacks

– Đúng vậy! Nhà sư gật đầu – việc cúng dường thì chẳng có gì trở ngại, mà lại rất quý báu nữa, thưa tôn ông!

Nói xong, nhà sư nhấc tay đẩy cánh gỗ lim dày.

Hơn ai hết, nhà sư làm rõ giá trị của nhành lão mai nọ, dẫu ngàn vàng cũng không mua được. Sau những ngày tuyết giá là ngày xuân, nhưng mùa đông này dường như nối dài ra, hoa anh đào sẽ nở muộn. Suốt cả vùng Tây Bắc này sẽ không còn đã đạt được một nụ hoa tươi. Tại chốn đế kinh, mấy năm về trước, thiên hoàng cũng đã đạt được mấy cành do các nhà thương buôn Trung Quốc mang đến phụng dâng, nhưng chắc là không thể sánh được với cỗi mai tuyệt vời này. Người lựa chọn nó chẳng phải là một con người tầm thường. Cành mai này thì bậc đế vương cũng ngoài tầm ước mơ. Cỗi mai xứng danh để trong một chiếc lọ cổ quý màu thanh ngọc điểm tuyết vân, đặt trên cái kỷ được làm bằng gỗ trầm hương, chẳng cần phủ gấm vá chỉ vàng chỉ bạc. Được bình mai vô giá này, tên tuổi nhà chùa sẽ lan tới chốn đế kinh, vững chắc thiên hoàng sẽ tìm về cùng với thiên hậu, thứ hậu lẫn tùy tùng đông đảo. Và như vậy, nhà chùa sẽ có được chút bổng lộc, sống đầy đủ vài tháng. Ngoài ra, các văn nhân mặc khách tha hồ tìm về để ngâm vịnh, xướng họa. Thơ phú sẽ tiến hành trân trọng viết lên giấy bạch vân, hoa tiên, xuyến chỉ, nguyệt hoàng cung… để chưng ở khách đường, viện trà, thư hương quán… Mà hễ có tài tử tất có mĩ nhân, biết bao nhiêu là tía hồng kiều mị tha thướt vào ra, đông vui như ngày hoa bướm hội.

Miên man suy tưởng, rạng rỡ nụ cười, nhà sư đã dẫn khách đến Nghinh Phong đường hồi nào chẳng hay. Cả chùa đổ xô lại, sửng sốt, hết nhìn khách lạ lại nhìn nhành mai: cành, nhánh phân bổ hài hòa, gốc to đen sần sù, gân guốc, bám đầy rêu đá. Đẹp như tranh!

Sư tri sự bước lại. Sau lúc biết chuyện, một chiếc lọ cổ được mang ra. Người ta sẵn sàng chuẩn bị mọi thứ cho khách cắm nhành mai vào đấy.

– Không được! Khách nói lớn giọng, dứt khoát – Không thích hợp! Giọng oang oang đinh cả tai mọi người.Xem thêm: Thông Tin Về Chuyện Tâm Linh Có Thật 100% Do Ad, Tâm Linh Huyền Bí

Nhóm thiền sinh hoảng kinh, dạt ra xa. Sư tri khách lễ phép nói:

– Thưa tôn ông! Đây là cái bình cổ nhất, quý nhất, đẹp tuyệt vời nhất của tu viện.

Người khách có vẻ không muốn nhiều lời, chỉ một mực lắc đầu. Một vài tiếng thì thào. Nhưng giá trị của cỗi mai bắt người ta phải chiều lòng vậy. Rồi mấy chục chiếc lọ nữa được mang ra, khách vẫn không vừa ý. Cả chùa đã tỏ ra tức bực vì sự khó tính khó nết này, một vài lời bất như ý, phạm thượng đã nho nhỏ thốt ra.

– Có một chiếc lọ cổ! Khách chậm rãi nói – không quý lắm! Trên mồm bình đã sứt hai chỗ. Một to bằng đồng đúc tiền có phù điêu của Thánh đức Thái tử. Một to bằng mồm chung rượu niên đại Suy Cổ Thiên hoàng. Men màu thúy lam, đôi chỗ lửng ửng màu hoàng yến; đường hoa văn thủy tiên chạy chỉ thêu màu thanh thủy rạng…

Ai nấy đều ngờ ngạc. Vài vị thượng tọa niên cao, lạp lớn nhăn trán, nhíu mày. Chịu. Không người nào biết ất giáp gì cái lọ ấy.

Hòa thượng viện trưởng đang đọc sách ở Thính Tâm đường sau khi nghe tới thượng tọa tri khách trình bày câu truyện về người khách, cỗi mai và chiếc lọ, ngài vội buông sách, chụp vội chiếc gậy lê, không kịp xỏ hài, đã như đám phù vân lướt nhanh ra phía trước.

Bốn tia mắt gặp nhau. Những ánh sao loáng lên. Hòa thượng rùng mình. Không khí tĩnh lặng, đọng lại. Đột ngột, hòa thượng đọc to lên:

– Kỵ lư quá tiểu kiều

Xem Thêm : KKK Là Gì – Vì Sao Mọi Người Thường Sử Dụng KKK Hơn?

Cảm thương mai lạc hoa…

Lạ thường thay! Hai con mắt khách chớp chớp, thoáng mờ như hơi sương. Hai câu thơ kia được tiếp tục như gió xao qua ngàn lau:

– Cổ nhân sầu bạch phát

Kỷ độ thủy lưu hà!”

Hòa thượng viện trưởng lắc lư như chao sóng:

– Các con! Ngài cố dấu sự xúc động – Chiếc lọ cổ ấy các con không biết là phải. Đấy là di vật của tổ sư, ta cất giữ kín kẽ ở Tàng Vân các. Lão tôn ông đây không phải là người lạ. Tạm thời các con ai về phòng nấy. Ta sẽ nói chuyện với những con sau.

Tổ sư khai sơn chùa Thiên Môn, vốn là chưởng môn một tông phái võ học tên tuổi. Sau khi nghe tới pháp thấy đạo, ngài biến võ đường thành thiền đường, tuần tự thụ giáo các cao tăng, sau đó thâu nhận môn đồ cả tăng lẫn tục. Ngài chọn một dãy phố riêng biệt. Các môn đồ của tổ sư phải trải qua một thời kì công phu khổ hạnh – về đạo, về võ học cũng như văn học, thẩm mỹ và nghệ thuật… Có người đã đi những bộ môn chuyên biệt, nên sau này ra đời, họ có thể xuống núi theo dãy phố tùy duyên hạnh nguyện. Đấy như thể thông lệ để gạn cát tìm vàng, huấn luyện những bản lãnh tăng tài làm giềng mối mai hậu cho cửa thiền.Xem thêm: Xem Phim Phật Giáo : Tâm Dược Đà La Ni, Phim Phật Giáo: Tâm Dược Đà La Ni

Cứ mỗi năm giáp Tết, tổ sư cho sửa sang quét dọn sau trước, đốt hương, xông trầm rồi chưng ở chiếc kỷ một bình mai. Bên kia vách nứa thấp thoáng vài câu đối. Bên này vách nứa nhấp nhoáng câu thơ trên mảnh giấy mộc vân:

“Kỵ lư quá tiểu kiều

Cảm thương mai lạc hoa

Cổ nhân sầu bạch phát

Kỷ độ thủy lưu hà!” (1)

Bài thơ này được tổ sư chép ra từ bức tranh thi họa ở chiếc lọ cổ – Tính từ lúc năm năm thứ nhất lúc đợt môn đồ trước hết xuống núi. Rồi năm năm thứ hai nữa qua đi, bài thơ cũ được viết lên trên giấy mới, cành mai được lựa chọn công phu hơn, cành nhánh tỉa tót thẩm mỹ và nghệ thuật hơn – vẫn không có bóng vía người môn đồ nào trở về!

Từ hai mươi tháng chạp, trong khoảng thời gian tuyết tan sớm, tổ sư thường đi vào cơn nhập định dài. Ngài ngồi trên nệm cỏ, đôi mày bạc kéo xiên như hai vệt tuyết, vừng trán cao nhẵn bóng như vách đá đá hoa. Bình mai giờ đây đã là một tác phẩm thẩm mỹ và nghệ thuật tuyệt vời. Bài thơ giờ đây rõ là nét chữ đang muốn hóa thành rồng để bay lên mây xanh! Nhưng sự đón chờ dường như đã mòn mỏi, chỉ có ngọn gió đông thì thào thoảng qua như cợt, như trêu! Qua cánh cửa tròn nhìn ra vùng đồi nhấp nhô, những cánh đào bung lộc mởn, lơ thơ mấy nụ “hồng vân sơn trà” ửng đỏ như điểm chu sa – tổ sư ngồi nhìn bất động. Có nhẽ nào tổ sư đang ngưng lắng cả thân tâm để phân biệt chiếc lá khô rơi hay tiếng bước tiến khe khẽ thân thuộc bên kia triền núi? Tổ sư có xả thiền vài lần, chống chiếc gậy lê, lững thững cô liêu theo triền núi xanh sim dại, bóng cắt giữa nền trời quạnh hiu. Tiếng chim núi hót vút lên không. Mấy dãy phố mòn ngoằn ngoèo bò lên tu viện, hẻo lánh. Vẫn không có một bóng ma nào!

Buổi giảng pháp đêm giao thừa, tổ sư ngồi trên chiếc người yêu đoàn, từ xa, phất tay áo rộng. Một làn gió quật tới. Chiếc lọ cổ dường như được chà thành men láng. Màu thúy lam chợt sáng lên, hiện rõ nét, linh động hơn, bức tranh: “Đạp tuyết tầm mai”.

You May Also Like

About the Author: v1000