Chờ và đợi…

Dùng những cách biểu hiện khác nhau cho cùng một nội dung trong tiếng nói tạo sự hiện tượng lạ đồng nghĩa, sự biến thể đồng nghĩa của tên gọi trên Lever từ. “Việc chọn từ đồng nghĩa phụ thuộc vào các chức năng xã hội và ngữ dụng học” (Fillmore), thể hiện đặc trưng dân tộc bản địa của tư duy tiếng nói trong sự tri giác, phạm trù hóa hiện thực, đặc điểm liên tưởng, văn hóa truyền thống tâm hồn – tính cách xử sự.

Các từ đồng nghĩa ý niệm thường không đặc trưng cho đại từ và hư từ, có mặt ở tất cả những từ loại từ thực, như danh từ trừu tượng lý lẽ – sự thực, dịp – thời cơ – thời cơ… nhiều nhất là ở khối hệ thống tính từ kiên định – kiên cường, trọn vẹn – nguyên vẹn… Và cũng luôn tồn tại nhiều ở từ loại động từ như cố – gắng, tìm – kiếm…

Giàu lòng thương cảm, giỏi chịu đựng đến bền lòng, nhẹ nhõm đến đau đáu ân tình. Một chờ hai đợi ba trông – Bốn thương, năm nhớ bảy tám chín mong mười tìm… Ấy là ý tứ ngóng trông mong đợi của chủ thể sườn lưng tựa núi mắt nhìn ra biển mang tính cách Việt. Sông dài cá lội biệt tăm – Chín thu cũng đợi mười năm cũng chờ… “Tiếng nói – là ngôi nhà của sự việc tồn tại” (Heiderger), “tiếng nói là dân tộc bản địa” (Dostoievsky).

Sống lưng tựa núi mắt nhìn ra biển

Chờ và đợi là cặp từ đồng nghĩa ý niệm, là những động từ đồng nghĩa trung tính về phong cách hàm nghĩa ở trong trạng thái trông ngóng cái sẽ tới, sẽ có được, sẽ xẩy ra… nên trong nhiều trường hợp có thể thay thế bổ sung lẫn nhau. Thế nhưng vẫn khác nhau về các sắc thái ý nghĩa cơ bản và phân biệt ý nghĩa khá tinh tế.

Theo Từ vị Tiếng Việt (Viện Tiếng nói học), chờ: ở trong trạng thái đang trông ngóng, ai hoặc cái gì sẽ tới, sẽ xẩy ra. Chờ khách. Chờ tin. Chờ tàu. Âm điệu nhẹ mà mỉa mai. Há mồm chờ sung. Còn đợi: chờ ai hoặc cái gì mà biết hoặc tin là sẽ tới, sẽ có được, sẽ xẩy ra. Đến chỗ bạn hứa đợi người yêu.

Ca dao là cung đàn muôn điệu tơ lòng, chờ – đợi được sử dụng tuyển lựa với ý tứ ngóng trông mong đợi của chủ thể có tần suất nhiều nhất ở tình yêu lứa đôi duyên nợ vợ chồng. Tùy vào từng văn cảnh, ý niệm, phong cách, sắc thái biểu cảm. Sự khác biệt này cũng là theo yếu tố chủ quan của từng người và không có sự rẽ ròi rõ ràng.

  • Xem thêm: Nho học, công lao và hệ lụy

Lúc để trong văn cảnh nhất định, từ chờ thường hàm ý điều đang trông ngóng có thể đến, hoặc không, hoặc chưa chắc đến… và tạo cho những người nghe một dự cảm không kiên cố, rõ ràng. Chờ anh chờ ngẩn chờ ngơ – Chờ hết mùa mận mùa mơ mùa đào. Lẳng lặng. Thiết tha. Xốn xang. Vô vọng… từ chờ thuộc thanh bằng, thanh điệu mềm nhẹ ngân dài thở sâu…

Còn từ đợi thuộc thanh trắc tạo cảm giác gieo nặng, dứt khoát, tin tưởng. Điều đang trông ngóng qua từ đợi gợi lên sắc thái kiên trì, tạo dự cảm hoặc kiên cố có cơ sở. Chủ thể trữ tình vẫn là người con gái giàu nữ tính mềm như nước, nhưng trông ngóng an định son sắt. Thuyền về có nhớ bến chăng – Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

Chờ và đợi...-3

Văn bản phổ quát cũng như sách Ngữ văn 7 đều ghi thuyền về… nhưng giả thử đổi thành thuyền ơi… xem chừng bớt nhạt mà tinh tế thâm thúy hơn. Vẫn là hai hình ảnh ẩn dụ – nhân hóa giao ước, giao hòa bằng những tình cảm sâu nặng. Vẫn là vướng mắc tu từ kết phù hợp với câu cảm thán làm cho giọng điệu ngân vang bổi hổi thao thiết. Nhưng tiếng gọi thuyền ơi như dòng độc thoại nội tâm xao xuyến lan xa trong không gian, thấm sâu tỏa rộng trong hồn người: Ơi… chăng là tiếng hát hòa thanh tạo nhạc du dương réo rắt đau đáu. Thuyền đi mãi chưa về. Lời than thương người mà cũng tự thương mình sông nước mờ sương khói tạo sự đồng vọng.

Có vậy mới dẫn đến câu hai neo đậu bến sườn lưng chừng trời. Thuyền và bến nằm ở hai vị trí đầu – cuối câu, cấu trúc mang lại ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc gợi tả dịch chuyển – nhất quyết, không gian xa rời xa xăm, thời kì ly biệt dằng dặc. Thuyền ơi… hai thanh bằng mênh mang hơi thở. Hai thanh trắc một dạ làm giọng thơ trĩu xuống thấm sâu. Khăng khăng đinh ninh không đổi. Đợi thuyền mới thật son sắt, lênh đênh mơ hồ mà đau đáu chất phác tin yêu… lòng tự dặn lòng.

Người con gái Việt, tính cách Việt cứ nhưng sông trong bến mà chờ mãi lượn quanh làng, như ghềnh đá thò chân xuống biển mà không dám ra khơi. Nước lên lai láng láng lai – Biết rằng bóng đổ về ai mà chờ. Ngoài sắc thái biểu cảm, xét về ý nghĩa, từ chờ êm nhẹ dường như thể hiện ý niệm túc trực nào đó khó nói nên lời, làm cho những người đọc liên tưởng, suy ngẫm, đồng vọng… Chờ chàng xuân mãn hè qua – Bông lan đã nở sao mà vắng tin.

Dòng thời kì cứ cuộn trôi, con người lực bất tòng tâm, ký thác vào không gian, bông lan đẹp thơm hồn nhiên, vậy mà… Cực lòng em phải nói ra – Chờ trăng trăng xế chờ hoa hoa tàn. Còn đợi như giọt nước mắt của trời rơi xuống dòng sông ra biển quay về buồn tin. Châu sa nước mắt ròng rã ròng rã – Thấu thiên thấu địa thấu lòng em chăng…

Thuyền mãi đi, bến mãi đợi trong niềm tin giọt buồn. Ra đi anh có dặn rằng – Nơi hơn em lấy nơi bằng đợi anh. Sông vòng ra cửa biển, đứng ghềnh núi nhìn xa, bao hòn vọng phu lặng vọng niềm tin hóa đá. Ví dầu tháng ngày thoi đưa – Bao năm chinh chiến anh chưa thấy về – Tô điểm son phấn em thề đợi anh… Cho tới thơ Hàn cô liêu, Núi vọng phu đau lòng cả mẹ cùng con. Giữ ngọc gìn vàng chai mặt mẹ – Chờ mây đợi gió cứng mình con… Lời ca bay lên, nước mắt rơi xuống.

Tính tình Việt giỏi mong chờ

Sự phát triển của tiếng Việt gắn bó với chữ viết. Đặc biệt quan trọng từ chữ Nôm sang chữ quốc ngữ theo lối thu thanh gắn bó với bản sắc văn hóa truyền thống, với vận mệnh văn học. Chờ và đợi từ cội nguồn truyền thống như dòng chảy xã hội, dòng chảy thi ca… từ tập đại thành Truyện Kiều đỉnh cao cổ điển đến Thơ Mới như một cuộc cải cách tương giao văn học thế giới là một minh chứng.

Chờ và đợi chỉ là thế giới của lời, của ý niệm, thế giới nghệ thuật và thẩm mỹ được mở ra từ hình tượng ngôn từ trên sân chơi văn hóa truyền thống Việt từ văn học chức năng trung đại sang văn học nghệ thuật và thẩm mỹ tiến bộ. Ý niệm, phong cách, sắc thái biểu hiện của chờ và đợi như một ký hiệu dịch chuyển từ kinh nghiệm cộng đồng quy phạm sang ý thức member – cái tôi cá biệt… trên hành trình dài sáng tạo “thi ca – vòng nguyệt quế nhấp nhánh trên vầng trán nghệ thuật và thẩm mỹ” (Belinski).

Văn học thế kỷ XVIII là sự việc chuyển mình trưởng thành vượt bậc đạt đến đỉnh cao hoàng kim của văn học trung đại trong tiến trình phát triển chung của nền văn học dân tộc bản địa. Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn) là tiếng kêu thương của người phụ nữ lẻ loi, ý thức thảm trạng thiếu tin tưởng, mất niềm vui sống, vò võ thương nhớ người chồng chinh chiến phương xa.

  • Xem thêm: Nhạc điệu núi sông

Văn học chức năng mà giàu thương cảm, cộng đồng mà giàu giá trị nhân văn cá biệt nỗi niềm tử biệt sinh ly – đặc biệt quan trọng thân phận người phụ nữ, hương gượng gập đốt, gương gượng gập soi… mà ôm trọn không – thời kì. Khắc giờ đằng đẵng như niên – Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Cõi người phức hợp khó lường khóa cõi thơ nhỏ bé vô lượng. Vầng trăng trôi, giọt nước mắt rơi, ngọn cỏ gió lay… phận Kiều mong chờ… Trong một chữ Đạo, lại lắm lối đi, nhiều ngả rẽ, ta ở đâu đi đâu về đâu trong đường đường, khó, giỏi chờ biết đợi mà qua mà sống. Từ chờ nở hoa hướng trời được sử dụng 10 lần, gấp hai lần từ đợi kết quả ngọt đất.

Chờ và đợi...-2

Sáng vui hội Đạp thanh, chiều buồn mộ Đạm Tiên. Đớn đau thay phận nữ giới – Lời rằng bạc phận cũng là lời chung… Thúy Vân mỉa tình, Vương Quan trách lý, còn Kiều… Dễ hay tình lại gặp tình – Chờ xem ắt thấy hiển linh thời điểm này. Kim – Kiều hứa ước qua kim thoa khăn hồng, xa mặt mà chẳng cách lòng, nhớ mong nhau. Sông Tương một dải nông sờ – Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia. Kiều bán mình chuộc cha, trao duyên cho em mà chằng trao tình, cui cút giữa dòng đời.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân… Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng… Mong nhớ người thân yêu, trước hết nhớ chàng Kim hứa ước dở dang. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng – Tin sương luống những rày trông mai chờ. Thoát chốn nhà chứa, gá nhờ Thúc Sinh, trốn chạy Thiến Thư… Lánh xa trước liệu tìm đường – Ngồi chờ nước đến nên đường còn quê…

Biết rõ sự tình, Giác Duyên nửa thương nửa sợ, yên ủi tìm đường… cho nàng trú chân tị nạn ở am mây họ Bạc đãi, nào ngờ cũng tổ bợm già… Chỉ là nước mắt – thư sinh không xong, tài tử không tròn, phận bạc nữ nhi. Mạnh mẽ tự tín hành động là hero nghĩa hiệp, dặn dò trong nhà biết mong chờ là phận nữ giới. Từ khuyên hứa Kiều: Đành lòng chờ đó ít lâu… Sắc tài trong giọt nước mắt thương đau. Thương thay cũng một kiếp người – Hại thay mang lấy sắc tài làm chi…

Trong bể khổ đau liệu có cách biến rác thành hoa. Kiều gieo mình sông Tiền Đường mong hết kiếp đoạn trường nhưng chưa xong… Những là oan khổ lưu li – Chờ cho hết kiếp còn gì là thân. Âu cũng mừng, biết học chết để giải thoát sinh mệnh. Lần thứ ba, cũng là lần cuối Đạm Tiên xuất hiện và báo mộng cho Kiều. Đạm Tiên thoắt đã thấy người thời xưa – Rằng tôi đã có lòng chờ. Chờ ở đây những mười lăm năm… thoắt đã… Kết thúc đoàn viên, Kim – Kiều tái hợp… lửng lơ… Khi chén rượu khi cuộc cờ – Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên. Có hoan hỉ mà nghiệp được chuyển hóa… cứ chờ… chỉ Kiều lặng biết, Nguyễn Du cười hiền… mua vui.

  • Xem thêm: Mạch hồn Liêu trai trong thời đoạn văn học 1930-1945

Mong đợi, đợi chờ như một dạng đặc điểm tính nết lịch sử hào hùng thể hiện những hiện tượng lạ văn hóa truyền thống, biểu thị tư cách con người. Chàng Kim sau lần đầu gặp Kiều, nhất kiến chung tình, tương tư mon men nhặt được cành thoa. Sinh đà có ý đợi chờ – Cách tường lên tiếng xin đưa ướm lòng. Cung đàn hứa thề, Kim về hộ tang chú, Kiều đột biến gia đạo. Quản bao tháng đợi năm chờ. Kiều xiêu bạt, Kim có Vân, đỗ đạt… Những là nấn ná đợi tin. Vua ban sắc chỉ đổi chỗ làm quan, cứ như biến cố sẽ tìm ra được nàng Kiều. Ý thức cá thể và tư cách vẫn đứng đằng sau khuôn sáo ổn định. Khuôn sáo ở dạng thư sinh tài tử như Kim, khách làng chơi như Thúc từ biệt Kiều. Chén đưa nhớ buổi hôm nay – Chén mừng xin đợi ngày này năm tiếp theo. Xác tín mà cực đau là ở hero. Từ chết, Hồ Tôn Hiến ép gả thổ quan. Kiều gặp sông Tiền Đường, mong hết kiếp đoạn trường. Đạm Tiên nàng nhẽ có hay – Hứa hẹn ta thì đợi dưới này rước ta. Ấy là trực quan về thời kì xiêu bạt đọa đày, không gian sông nước tự nhiên mà siêu tự nhiên tâm linh trong thế giới cảm xúc.

Hái phù dung mong chờ hòa thanh

Thuật ngữ tính nết (Mentalité) bắt nguồn từ tiếng Latinh mens – trí tuệ, tư duy, lối tư duy, tư chất ý thức. Mong đợi là một dạng tính nết Việt chứa tổng thể tư tưởng, niềm tin, thói quen ý thức khá trọn vẹn, tạo ra bức tranh nhân sinh – thế giới. Từ ca dao mang tính nết nguyên thủy mộc mạc mà kì quái, chất phác mà siêu tự nhiên, Em ôm lòng đợi bóng trăng xế chiều… sang thơ ca cổ điển mang tính nết trung thế kỉ – trung đại con người thường tự đồng nhất mình với mô hình khuôn mẫu nhưng đã xuất hiện một quy mô tư cách tự ý thức, tự phản tư, Quản bao tháng đợi năm chờ… Sang Thơ mới đã là dạng tính nết tiến bộ ảnh hưởng tác động phương Tây trong trực quan nhạy cảm cái tôi member cá thể.

Chờ và đợi...-1

Chờ và đợi trong Thơ mới thành thực đời thường mà mỗi người một vẻ. Cái tôi vẫn còn mặc định ràng buộc… nên thích kiểu nói ngông nói ngược, kiểu Xẻn lẻn khác thường vô hạn như Hàn Mặc Tử, Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu – Đợi gió đông về để lơi lả, kiểu triết lý trữ tình như Chế Lan Viên, Tôi có chờ đâu có đợi đâu – Đem chi xuân tới gợi thêm sầu, kiểu băn khoăn thèm khát như Xuân Diệu, Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…

Là xuân đó. Tôi đợi chờ chi nữa. Mong đợi thực hóa mộng, sông hóa trăng và thuyền chờ trăng đồng hiện mênh mang sông nước hư ảo, ý nguyện tha thiết khát khao vô hạn, cao quý hoàn mĩ… còn kịp hay là không là chuyện khác. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó – Có chở trăng về kịp tối nay.

  • Xem thêm: Tục ăn trầu ở châu Á

Giữa các thời đoạn có những sắc thái chung và chuyển tiếp lẫn nhau trong cách sử dụng từ chờ – đợi mỗi thời đều phải sở hữu những cảm xúc – tư duy, thiên kiến, thói quen, thiên vị… phổ quát – cá biệt trong lối sống xã hội Việt… Như câu ca hiện đại. Em vẫn chờ anh dưới giàn hoa tím – Mong nhớ anh về như đồng nắng mong mưa… Như cây khô vẫn mong chờ lá… (Mai Cường).

Chờ và đợi nhiều khi tự huyễn, như lời nói yêu thương bôi trơn tình yêu. Nhưng tính nết thực lòng tạo sự sức sống. Chờ – đợi, đợi – chờ tương tác dung hòa mềm buồn nước chảy hoa trôi… Đúng là tính cách Việt. Trăng bao nhiêu tuổi trăng già – Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non. Dẫu mình không trẻ lại – Vẫn đợi chờ như xưa (Hoàng Nhuận Cầm). Ký ức trong tim tay hữu hạn xòe nở thinh không vô hạn, lặng đau ngọt ngào như đóa phù dung ngân kinh sám hối.

Thôi em cảm tạ mong đợi – Ngày anh đi hái phù dung chưa về (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Mong đợi là dạng tư duy tiếng nói Việt mang tính cụ thể, thiên về kiểu tư duy liên hợp, cảm giác, hành động – trực quan mang ý niệm hình tượng. Hiểu biết và vận dụng chờ – đợi mang bản sắc văn hóa truyền thống tiếng nói và tư duy dân tộc bản địa là sự việc tự ý thức dân tộc bản địa. Chờ – đợi còn bị ràng buộc, phụ thuộc. Tự mong đợi như đôi cánh của cuộc đời…

You May Also Like

About the Author: v1000