Bùi Chu – Phát Diệm, vì sao là lịch sử?

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Bui chu phat diem la gi và hy vọng rằng nó sẽ hữu ích cho bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa này trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với các chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng rằng thông tin mà chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật những kiến thức mới nhất.

Mẩu chuyện nhà thời thánh Bùi Chu đang đứng trước các cuộc tranh cãi là có nên phá bỏ, xây mới, lại rơi vào một trong những thời khắc rất thú vị: kỷ niệm 65 năm những người dân miền Bắc di trú vào Nam theo tiếng gọi tự do (1954 – 2019).

Bạn Đang Xem: Bùi Chu – Phát Diệm, vì sao là lịch sử?

Trong những điều mà người ta buôn dưa lê, và nói Thánh địa Chánh tòa Bùi Chu, thuộc xã Xuân Ngọc (Xuân Trường, Tỉnh Nam Định) là di sản, là lịch sử hào hùng bởi được xây vào năm 1884, bởi giám mục người Tây Ban Nha Wenceslao Onate Thuận, nhưng thật ra, ẩn sau đó, là một mẩu chuyện của niềm tin, máu, nước mắt, oan khiên… không chỉ riêng của người Đạo gia tô, mà còn là một cả một chặng dài lịch sử hào hùng người Việt.

Người ta vẫn hay kể những mẩu chuyện kinh hoàng về người ở lại miền Bắc sau 1954, với Cải cách ruộng rẫy, với những vụ án xét lại chống Đảng, chiến dịch thanh trừng Nhân văn-Giai tác… nhưng rất ít có tài liệu nào nói lại rằng những người dân chọn ở lại, những linh mục, những giáo dân… đã sống thế nào trong những tháng ngày ấy, cho tới 1975.

Từ thời điểm tháng 7-1954, dòng người xuôi ngược khi chia cắt tổ quốc, dù không thống kê được đầy đủ, nhưng theo sách Ramesh Thakur, Peacemaking in Vietnam, ước tính rằng có tầm khoảng gần một triệu người từ miền Bắc Việt Nam chạy vào Nam vì từ chối sống dưới chính sách cộng sản. Trong lúc đó, chỉ có khoảng gần 4.500 người từ Nam ra Bắc. Đa phần họ được gọi tên là dân tập trung đời đầu. Tuy nhiên, đó chỉ là số lượng thống kê cho tới hết tháng 7 năm 1955. Những cuộc đào thoát sau đó, từ Bắc vào Nam là còn chưa tính đến.

Xem Thêm : Nhận định về game x là gì | Sen Tây Hồ

Trong số những giáo dân vào Nam, có không ít người từ Bùi Chu – Phát Diệm. Vì lẽ, hơn ai hết, từ thời điểm năm 1945 họ đã hiểu cộng sản là gì. Đức giám mục Lê Hữu Từ (được tấn phong từ thời điểm tháng 10/1945) đã nhận được ra được ẩn đằng sau Mặt trận Việt Minh là bàn tay của Quốc tế Cộng sản. Chính vì vậy, ngài đã sớm hậu thuẫn cho tổ chức Việt Nam Đạo gia tô Cứu Quốc, nhằm tách biệt với hàng ngũ người Cộng sản, đặc biệt quan trọng trong toàn cảnh mọi người Việt Nam đều quyết kháng Pháp để đòi độc lập dân tộc bản địa.

Đó không phải là suy đoán, vì tài liệu nghiên cứu (2009) nằm trong tàng thư của Tòa tổng giám mục Sài Gòn, được tổ chức bởi Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn từ trong năm 2007, có ghi lại rằng Đức cha Lê Hữu Từ đã công khai tách bạch giữa chủ nghĩa dân tộc bản địa và chủ nghĩa cộng sản với những người đứng đầu của chính sách miền Bắc là chủ toạ Hồ Chí Minh. Năm 1946, khi về Phát Diệm để tạo hòa hoãn với Đức cha Lê Hữu Từ, trong vai trò là Giám mục cố vấn chính phủ nước nhà, chủ toạ Hồ Chí Minh đã nghe trực tiếp lời tuyên bố của Đức cha rằng “Tôi và toàn dân Đạo gia tô Phát Diệm kết đoàn và triệt để ủng hộ Cụ trong công cuộc chống thực dân Pháp, giành độc lập cho tổ quốc Việt Nam. Nhưng nếu Cụ là Cộng sản thì tôi chống Cụ, và chống Cụ từ phút này”. Nhưng vào lúc đó, ông Hồ Chí Minh vẫn không sở hữu và nhận mình là Cộng sản. Thậm chí là ông còn nói với Đức cha Lê Hữu Từ rằng sẽ sở hữu một cuộc phổ thông đầu phiếu “toàn dân sẽ định đoạt, Cụ và tôi khỏi phải lo”.

Nhưng cuộc phổ thông đầu phiếu đúng nghĩa ấy, không bao giờ có với những người miền Bắc sau 1954 và toàn quốc, sau 1975.

Nằm kề nhau, nên hai giáo phận Bùi Chu và và Phát Diệm có cùng một xu hướng về đạo và đời. Đó là chưa nói 2 nơi này còn có cùng một lãnh tụ ý thức của người Đạo gia tô miền Bắc từ thời điểm năm 1954 đến 1967, là ngài Thaddeus Lê Hữu Từ, Giám quản Tông tòa hạt thay mặt của tất cả hai nơi này qua từng thời kỳ.

Sự xích mích giữa tổ chức Việt Nam Đạo gia tô Cứu Quốc và Việt Minh tăng dần, dẫn đến những va chạm bằng vũ khí. Theo tài liệu Gibbs, “Battle of Indo-Trung Hoa”, Đức cha Lê Hữu Từ đã có một đội nhóm dân quân kháng Pháp và cũng để bảo vệ giáo dân trước Việt Minh, số lượng được ước tính trong sách nói có những khi đã lên tới mức 6.000 người. Ủng hộ và yểm trợ cho ngài về mặt chiến sự, được biết có ông Ngô Cao Tùng, chức danh thiếu tá, có nguồn gốc là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lực lượng vũ trang của ông Tùng được ước tính cũng có tầm khoảng 1.700 người.

Xem Thêm : Node là gì? 5 bước chạy node cơ bản của blockchain

Đây là một tình cảnh không khác gì với Phật giáo Hòa Hảo ở miền Nam Việt Nam. Một mặt chống Pháp đòi độc lập, nhưng mặt khác người yêu nước phải luôn phòng ngừa Việt Minh xoá sổ mình để gồm thâu về một mối cho chủ nghĩa cộng sản. Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập đạo Hòa Hảo, đã cho hình thành Lực lượng Vũ Trang Hòa Hảo (1945), mà tiền thân là Đội Bảo An, sau đó có thêm lực lượng Hòa Hảo Dân Xã của tướng Trần Văn Soái (tức Năm Lửa) sát nhập vào nhằm bảo vệ mình, cũng như cho cuộc kháng Pháp.

Tháng 10-1949, người Pháp bất thần nhảy dù trên không đổ xô xuống đồng Lưu Phương, sát cạnh khu an toàn Phát Diệm, không có ai trở tay kịp vào lúc đó. Và cũng chính vì lý do này mà Việt Minh coi hai vùng Bùi Chu-Phát Diệm là ngầm theo Pháp chống lại Việt Minh. Dĩ nhiên đó mưu mô chính trị, mà sau 1954, người thiên chúa giáo ở Bùi Chu – Phát Diệm còn ở lại miền Bắc bị rơi vào hoàn cảnh khốn khó hơn hết dưới sự kiểm soát của chính quyền sở tại Bắc Việt cộng sản.

Theo tài liệu “Thái độ của không ít Giám Mục miền Bắc so với Cộng sản từ 1945 đến 1954” do nhà chép sử Đạo gia tô Vũ Sinh Hiên ghi lại cho thấy, dù ở trong vùng Pháp kiểm soát, nhưng suốt trong thời kì đó, Đức cha Lê Hữu Từ vẫn luôn thổ lộ sự bất mãn và chống đối công khai với những người Pháp và vua Bảo Đại. Năm 1951, nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh thánh Jean Baptiste de la Salle, Đức cha Lê Hữu Từ đã lấy cớ đó, đọc bài diễn văn nảy lửa, tuyên bố rằng “Người Pháp hãy ở yên tại Paris và Bảo Đại nên về lại Sài Gòn”.

Nhưng dù vậy, đến 1954, khi người Pháp thoát ra khỏi Bắc Việt, mở màn cuộc chia đôi tổ quốc, các giáo phận Bùi Chu-Phát Diệm vẫn nằm trong sự thù nghịch của chính sách mới. Tên gọi “những con quạ đen” được truyền thông Quốc gia Marxist đặt tên cho những linh mục và tuyên truyền từ đó. Và rồi, một chương khác đầy khổ nạn đã mở ra. Một chặng lịch sử hào hùng vừa tự hào, vừa đớn đau của người Đạo gia tô miền Bắc đã hằn nơi mảnh đất nền họ sinh sống, hằn nơi tiếng chuông nhà thời thánh và những phiến đá nham nhở, yếu ớt theo thời kì của không ít thánh đường, như thánh đường Bùi Chu vậy.

Và đó là một phần của mẩu chuyện dài, để giảng giải thêm vào cho ý nghĩa Bùi Chu – Phát Diệm vì sao là lịch sử hào hùng.

( Ảnh màu: Thánh địa Bùi Chu trước lúc hạ giải – Ảnh trắng đen, giáo phận Bùi Chu trước năm 1954)

You May Also Like

About the Author: v1000