What Is Blunt Trauma Là Gì, What Is Blunt Force Trauma

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Blunt trauma la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích và lựa chọn từ khóa phù hợp, cùng với chiến lược và công cụ hữu ích. Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog để cập nhật kiến thức mới nhất.

Tổn thương hoành, Chuyên đề, Tuần 3, Trần Đại Nghĩa, tổ 2, y 2012b

Tổn thương hoành phải cùng rách nát gan trong trường hợp vết thương xuyên thấu ở bụng: trường hợp được ghi nhận

Bạn Đang Xem: What Is Blunt Trauma Là Gì, What Is Blunt Force Trauma

Antonino Agrusa*, Giorgio Romano, Daniela Chianetta, Giovanni De Vita, Giuseppe Frazzetta, Giuseppe Di Buono, Vincenzo Sorce and Gaspare Gulotta

Gửi từ tác giả: Antonino Agrusa sentayho.com.vn

Trung tâm ngoại tổng quát, tham vấn và ghép tạng, ĐH Palermo

Nhật trình thế giới và các ca mổ cấp cứu đăng năm 2014, 9:33

Tóm tắt:

Mở đầu: tổn thương hoành là một tổn thương hiếm gặp trong chấn thương vùng ngực bụng và thường đi kèm với tổn thương đa tạng. Cơ hoành là một cơ quan khó nghiên cứu vì cấu trúc phẫu thuật và hình ảnh thấy được dự trên sự vận chuyển sinh lí của nó. Vì thế, chấn thương hoành thường bị bỏ sót và thường được chỉ chuẩn đoán khi đã có can thiệp ngoại khoa. Chuẩn đoán muộn làm tang tỉ lệ tử vong cho BN.

Bạn đang xem: What is blunt trauma là gì, what is blunt force trauma

Phương pháp: chúng tôi đưa ra một trường hợp lâm sang là bệnh nhân nam 45 tuổi được đưa đến với một vết thương do dao đâm ở thành bụng trên Phường. Dạng và độ dài của con dao giống không rõ vì nó đã được lấy ra sau lúc bị tiến công. Hình ảnh CT cho thấy tràn máu màng phổi Phường không có sang thương phổi và rách nát vào trong nhu mô gan với dòng máu đang chảy. Ngoài ra còn thấy có tràn máu phúc mạc và có vòm hơi dưới hoành với hình ảnh giống như thủng tạng rỗng. Cận lâm sang cho thấy lượng hemoglobin giảm (7mg/dl), và vì thế chúng tôi quyết định sử trí bằng việc mổ phanh đường giữa bụng.

Tóm lại: ở những quốc gia có tình trạng đấm đá bạo lực thành viên thấp, thì việc vết thương bằng dao đâm gây tổn thương hoành thường hiếm gặp, trong trường hợp này là tổn thương hoành Phường. Tổn thương hoành thường được bỏ sót do có nhiều tổn thương khác của rất nhiều tạng khác, dẫn đến tình trạng shock và suy hô hấp, và rất khó có thể chuẩn đoán xác định là tổn thương hoành khi thiếu đi nhưng cái phương tiện chuẩn đoán chuyên biệt và đặc hiệu. Chuẩn đoán chậm gây tang nguy cơ tử vong do chấn thương gây ra những triệu chứng diễn tiến lặng lẽ. Tổn thương hoành phải được nghi ngờ khi có những tín hiệu hình ảnh gồm có tràn máu màng phổi, tràn máu phúc mạc, thiếu máu, và hình ảnh bóng hơi dưới hoành ở khoang bụng.

Nền tảng: Tổn thương hoành là một thử thách cho việc chuẩn đoán và điều trị cho nhà ngoại khoa. Nó thường bị bỏ sót, chuẩn đoán muộn làm tang nguy cơ tử vong. Ở những quốc gia có tình trạng đấm đá bạo lực mang tính thành viên thấp, nó thường là những chấn thương hiếm gặp, chỉ ở mức 4-5% BN phải thực hiện mổ phanh với việc chấn thương gây tổn thương hoành. Nó thường gây ra bởi những chấn thương do vật cùn vào ngực hay bụng, và hiếm gặp hơn là những ca do vật sắc và nhọn. Biểu hiện lâm sang rất phong phú gồm có với chảy máu hoành và các tạng thứ phát, gồm có tổn thương tắc ruột có tham dự và suy hô hấp, có thể xẩy ra hàng tháng, thậm chí là hang năm tiếp theo chấn thương do thoát vị hoành. Chuẩn đoán tổn thương hoành khó là vì 2 nguyên nhân, thứ nhất là vì sự tổn thương của nhiều tạng khác làm đánh lạc vị trí hướng của y sĩ, thứ hai là sự việc thiếu sót trong hình ảnh để chuẩn đoán lien quan đến những khối cơ hoành. Trong bệnh nhân có tình trạng mất máu tiêu biểu với vết thương xuyên thấu ở vùng bụng, thì phải nghi ngờ đển tổn thương hoành, với việc đưa ra những hình ảnh chuẩn đoán có mức giá trị, những y sĩ có kinh nghiệm thường mổ phanh để mang ra chuẩn đoán và điều trị có mức giá trị và tốt nhất. Trong trường hợp những BN có triệu chứng không tiêu biểu, mổ phanh đường giữa được thực hiện như thể một giải pháp can thiệp để được chấp nhận khảo sát toàn bộ khoang bụng.

Phương pháp: một người phái nam được đưa đến chỗ chúng tôi với một vết thương do dao đâm ở vùng bụng trên Phường, mà không có tím tái hay không thở được. Huyết áp là 130/80 mmHg và Hb là 12.5mg/dl. Triệu chứng thực thể, BN có một vết rách nát, tình trạng vết thương chảy máu ở một phần tư Phường vùng bụng, không có những vết thương nhỏ không thấy được, có thể thấy được toàn bộ vết thương. Dạng và độ dài của con dao được giữ nguyên sau lúc được lấy ra sau lúc bị tiến công. Điểm tập trung vào hình ảnh chuẩn đoán chấn thương (FAST) đã được thực hiện là phát hiện máu dưới hoành và quanh gan. Ngoài tình trạng chướng lên nhiều vùng và sự lien kết lỏng lẻo giữa các phòng ban của thân thể, không còn tín hiệu nào khác. BN đã được chụp CT scans để xác định nếu có them bất kì sang thương nào khác còn trong ổ bụng.

Kết quả scans cho thấy tràn máu màng phổi Phường và không có sang thương ở phổi, với tình trạng tràn máu phúc mạc trùng bình từ một vết chảy máu ở vết rách nát nhu mô gan cùng với bóng hơi dưới vòm hoành vùng bụng giống như một ca thủng tạng rỗng(hình 1)

hình 1, kêt quả CT: a) tràn máu phổi phải không thấy tổn thương hoành, b) tràn máu cục bộ phúc mạc từ vết rách nát gan do vết thương xuyên thấu và bóng hơi tự do ở khoang bụng

hình 2: a) vết thương thấu ngực một phần tư bụng trên Phường, b) vết rách nát gan và tổn thương vòm hoành Phường, c) dụng cụ đặt miếng gạc vào vết rách nát của gan, d) sử chữa lại vết tổn thương hoành với chỉ không tiêu và đặt tấm hút dịch y tế chứa sợi thrombin và sợi tơ người.

Tóm lại, sự nghi ngờ thủng đường tiêu hóa hướng đến việc can thiệp bằng mổ phanh, nhưng tình trạng huyết động của bệnh nhân thay đổi nhanh chóng. Trong phòng mổ, bn thể hiện tình trạng mạch yếu và nhanh, huyết áp giảm xuống 90/60, và nhịp tim thường tang lên 115 lần/phút. Xét nghiệm máu cho thấy Hb giảm ( 7mg/dl), và vì thế chúng tôi quyết định mổ phanh đường giữa.

Sau mổ, lượng chảy của dòng máu đã xác định được vị trí chảy máu. Vết rách nát của gan dài 8 cm, sâu 1cm, với máu đỏ chảy ở phân thùy 4-5( thang điểm tổn thương bậc II theo AAST). Mở cận thận vào khoang bụng cho thấy một vết rách nát của cơ hoành Phường dài 12cm đang chảy máu và nó là nguyên nhân của bóng hơi tự do dưới hoành được nhìn thấy trong hình CT. Không còn sang thương nào khác ở khoang bụng được tìm thấy them nữa. Miếng gạc được sử dụng để ngưng dòng máu chảy. Sau khoản thời gian ngưng dòng máu vào khoang màng phổi Phường, chúng tôi khâu vết tổn thương của vòm hoành bằng một loại chỉ không tiêu, bằng việc để lên một miếng lưới thấm ngực Bouleau. Vết khâu hoàn toàn đáp ứng với miếng bọt hút nước chưa sợi thrombin và sợi fibrin của bệnh nhân để kiểm soát nhiễm trùng máu và kết nối lại cấu trúc mô. Sau khoản thời gian kiểm soát được cầm máu và khép lại vết rách nát, chúng tôi quyết định điều trị bảo tồn bằng việc đặt tấm lưới cầm máu trên vết rách nát ở gan. Cuộc phẫu thuật kết thúc bằng việc đặt lại vị trí của rất nhiều ống ruột ở vị trí khoang dưới cơ hoành Phường. Một lần truyền máu trong suốt cuộc phẫu thuật. Sau thời kì phẫu thuật, huyết áp 120/80, Hb 9. Ông dẫn lưu ngực được lấy ra sau 4 ngày, sau lúc kết quả Xquang cho thấy xử lý được tràn máu màng phổi.

Thảo luận:

Cơ hoành là cơ giữ chức năng hô hấp chính. Với bản thân là các dải sợi cơ nó có vai trò tới 70% tạo nên sức ép âm trong khoang phổi có vai trò quan trọng trong cơ chế hô hấp, song song cũng tác động khiếm tĩnh mạch đưa máu về tim. Một cơ hoành hoàn chỉnh chia khoang ngực ra từ sức ép dương của ổ bụng, đảm bảo duy trì thích hợp sự khác biệt về sức ép giữa 2 khoang bụng và phổi, song song cũng ngăn chặn sự vận chuyển của rất nhiều tạng bụng vào khoang ngực. Vết rách nát của cơ hoành gây ra một cơ chế sinh vật học khác biệt trong đó có sự vận chuyển của rất nhiều tạng bụng vào ngực và sự biến mất của gradient phân áp gây nên một cơ chế hô hấp khác là sự việc chèn lấn tĩnh mạch chủ dưới gây nên tình trạng giảm lượng máu về tim, và thường gây suy hô hấp và chèn lấn tim. Vết rách nát của cơ hoành có nguy cơ cao gây tình trạng chết lâm sàng, và chuẩn đoán chậm trễ hay bị bỏ sót có thể là nguy cơ cao gây tử vong với dạng chấn thương như trên.

Trong ghi chép, trường hợp tổn thương cơ hoành trước hết được ghi lại là vào thế kỉ 16 và Bowditch đã mô tả lại tổn thương cơ hoành vào năm 1853, trên một nạn nhân đã chết do đạn bắn trong lúc khám nghiệm tử thi. Ca phẫu thuật mổ phanh sử chữa cơ hoành do vết thương xuyên thấu trước hết được mô tả đàu tiên bởi Riolfi vào năm 1886, trong lúc vào năm 1900 Walker công bố ca mổ phanh chữa lại tổn thương cơ hoành do đạn bắn.

Khá khó khan trong việc đánh giá và nhận định đúng là tổn thương cơ hoành vì thế có thể gây nên bỏ qua chuẩn đoán và có thể gây tử vong sau đó. Khoảng chừng 5% BN với vết thương bụng trong trường hợp mổ phanh bụng hay phanh ngực tìm thấy tổn thương hoành. Thường gây ra bởi những chấn thương do va đập vào vùng bụng hay ngực(75%) và ít gặp hơn trong vết thương xuyên thấu (25%). Tổn thương hoành thường xẩy ra nhiều ở phái nam( nam/nữ: 3/1) thường xuất hiện trong chấn thương kín và ít gặp hơn trong vết thương thấu ngực. Tỉ lệ tử vong từ 1-28% dựa vào vị trí tổn thương và nó cũng do chuẩn đoán chậm trễ.

Ở những quốc gia có tình trạng đấm đá bạo lực thành viên thấp, thì việc vết thương bằng dao đâm gây tổn thương hoành thường hiếm gặp, trong trường hợp này là tổn thương hoành Phường. Tổn thương hoành thường được bỏ sót do có nhiều tổn thương khác của rất nhiều tạng khác, dẫn đến tình trạng shock và suy hô hấp, và rất khó có thể chuẩn đoán xác định là tổn thương hoành khi thiếu đi nhưng cái phương tiện chuẩn đoán chuyên biệt và đặc hiệu. Chuẩn đoán chậm gây tang nguy cơ tử vong do chấn thương gây ra những triệu chứng diễn tiến lặng lẽ. Tổn thương hoành phải được nghi ngờ khi có những tín hiệu hình ảnh gồm có tràn máu màng phổi, tràn máu phúc mạc, thiếu máu, và hình ảnh bóng hơi dưới hoành ở khoang bụng.

Xem thêm: Học Cách Chế Biến Lươn Cho Bé Ăn Dặm, Học Cách Làm 5 Món Ngon Từ Lươn Cho Bé Ăn Dặm

tham khảo:

Bệnh án cấp cứu

I. Hành chính

Họ và tên: Nguyễn Thị Liên Nam nữ: Nữ

Nghề nghiệp: Tuổi: 50

Xem Thêm : Hô hấp sáng là gì?

II. Lý do NV: đau bụng vùng hạ vị

III. Bệnh sử:

– 3 tháng trước lúc NV, BN không có kinh, lúc có trở lại thì BN bị đau bụng vùng hạ vị, đau âm ỉ.

– BN tự điều trị bằng thuốc tận nhà nhưng không bớt

– 3 ngày trước lúc NV, cơn đau của BN từ từ tăng lên. BN đang xuất hiện kinh, ra máu màu đen

– Sáng ngày 18/5, BN đau bụng quá nên NV

IV. Tiền căn: 3 tháng trước không có kinh

V. Sơ lược những đơn vị:

– Tổng trạng: BN tỉnh táo, không sốt.

– Có điểm đau vùng hạ vị và 2 hố chậu (T), (Phường), đau nhất lúc ấn vào vùng bụng trên xương mu

– Cơn đau bụng của BN không lan, đau quặn bên trong, không có tư thế giảm đau.

– Chi trên (Phường) lạnh từ khuỷu tay trở xuống

– Mạch quay, trụ 2 tay khó bắt

– BN tiêu tiểu thường nhật, không có huyết trắng.

VI. Khám lâm sàng:

1. Khám toàn trạng:

– BN tỉnh táo xúc tiếp được.

– Sinh hiệu: M: 92 l/p T: 37 oC

HA: mmHg NT: 20 l/p

2. Hệ hô hấp: Phổi trong

3. Hệ tuần hoàn: T1, T2 rõ, không âm bệnh lý

4. Hệ tiêu hoá: Chưa xuất hiện ghi nhận thất thường

5. Hệ tiết niệu: Chưa xuất hiện ghi nhận thất thường

6. Hệ thần kinh: Chưa xuất hiện ghi nhận thất thường

7. Cơ-xương khớp: Chưa xuất hiện ghi nhận thất thường

VII. Cận Lâm sàng:

– Đề xuất: Siêu thanh, Công thức máu

– Kết quả CLS: U xơ nội mạc tử cung

VIII. Tóm tắt bệnh án:

Xem Thêm : Cáp sạc Type-C dùng cho máy nào ?

BN nữ, 50 tuổi, nhập viện vì đau bụng vùng hạ vị, qua thăm khám phát hiện các triệu chứng cơ năng và thực thể sau:

– Triệu chứng cơ năng: Đau bụng vùng hạ vị, ra máu màu đen khi có kinh, không có huyết trắng

– Triệu chứng thực thể: Có điểm đau vùng hạ vị và 2 hố chậu (T), (Phường), đau nhất lúc ấn vào vùng bụng trên xương mu, không sốt

– Chẩn đoán sơ bộ: U xơ nội mạc tử cung

Read Full Post »

Văn bản báo cáo case lâm sàng : xoắn lách di động

Giới thiệu:

Xoắn lách di động là một trong những bệnh hiếm gặp trên lâm sàng thấp hơn 500 case đã được báo cáo giải trình với cùng 1 tỷ lệ dưới 0,2%.

Lá lách là một phần quan trong của mạng lưới hệ thống lưới nội mô, tham gia vào sự đề kháng miễn nhiễm và có vai trò như một nơi dự trữ hồng huyết cầu.

Lá lách được một mực bởi dây chằng dạ dày – lách, lách – thận, lách ruột, Từ đó, sự suy yếu kết dính của rất nhiều dây chằng này dẫn đến phúc mạc phủ rộng lách trở thành di động nhiều. Tất cả những trường hợp xoắn lách di động đều cho thấy liên quan đến cuống lách dài mà trong đó gồm có các mạch máu lách và đuôi tụy.

Lá lách di động có thể do bẩm sinh hoặc phạm phải. Trong tham dự bẩm sinh các

dây chằng không phát triển thường nhật, trong lúc sự cấp thiết của rất nhiều tác dụng hormon thai kì và thành bụng nhão được đề xuất như các yếu tố quyết định. Thêm vào đó, sự thất bại trong quá trình thống nhất màng treo dạ dày sau trong quá trình phát triển của thai nhi đưa đến kết quả là cuống mạch máu lách dài đặc trưng được hình thành.Tuy nhiên nguyên nhân xác thực của lá lách di động vẫn không được nghe biết

Case lâm sàng:

Bệnh nhân nữ 27 tuổi người Ả rập , đến nhập khoa cấp cứu với bệnh sử 24 tiếng đau quanh rốn ( bệnh nhân khai ) , đau đột ngột dữ dội liên tục ,lan từ hông sườn lưng phải qua hông sườn lưng trái , thang điểm đau 10/10 , tăng khi ăn hay vận chuyển ,kèm ói ra dịch không lẫn máu .Bệnh nhân đi tiêu thường nhật và không có máu trong phân . Trước đó đã từng nhập khoa cấp cứu 4 lần trong năm ngoái , vì đau nhói (nhẹ hơn lần này ) hố chậu trái lan ra sau sườn lưng .Không có tiền căn mắc bệnh niệu hay bệnh phụ khoa . Trong 4 lần này , bệnh nhân được điều trị với chẩn đoán là cơn đau quặn thận . Tiền căn : trào ngược dạ dày thực quản ( không thất thường biểu mô liên kết ) Khám lâm sang : b/n cảm giác khó chịu ,bứt rứt , không sốt , mạch nhanh 117l/p , khám tim phổi thường nhật .Bụng mềm ,đau khắp bụng , đặc biệt quan trọng đau tăng khi ấn ở hố chậu phải và hạ sườn trái .Dấu Rovsing âm tính , nhu động ruột chậm . Lúc nhập viện : Hb 11,7 g/dl WBC 16,6K /dl Neu 14,8K/dl chức năng gan thận , lactate , amylase trong giới hạn thường nhật Phim X_quang bụng : quai ruột non – ruột già giãn ở vùng ¼ bụng trên trái , mức khí dịch ở tại mức độ được chấp nhận ở những vùng còn sót lại X-quang ngực thường nhật Xử trí : đền bù dịch , chống ói , giảm đau và khai mạc sử dụng kháng sinh theo phác đồ viêm ruột thừa cấp ( vì điểm đau nhất ở hố chậu phải ) Siêu thanh : dịch tự do ở bụng và hố chậu . Đường dọc giữa bụng có một khối đồng nhất giống như lách , không có mạch máu gợi ý trên Doppler . Ở vùng hạ sườn trái không thấy có hiện hữu của mô lách . CT-scan : lách to 17cm ở giữa bụng . đó có thể là tiến trình tự nhiên của nhồi máu lách . Vùng hạ sườn trái không có mô lách , hiện hữu các quai ruột giãn , dịch tự do trong ổ bụng và hố chậu .Gan túi mật thận tuyến thượng thận thường nhật . Ruột thừa và những đơn vị ở vùng hố chậu không có dấu hiêu nào thất thường

Hình 1: Góc phần 4 trái bị ruột chiếm chỗ

Hình 2: Lách hiện hữu ở bụng dưới/ tiểu sườn

Bệnh nhân được sẵn sàng chuẩn bị phẫu thuật cấp cứu cắt lách sau lúc phát hiện ra lách to ở giữa bụng . Lách to 20 cm dẫn đến mạch máu bị ùn tắc và góp phần gây ra nhồi máu . Không có dây chằng xúc tiếp lách và đuôi tụy xúc tiếp mạch máu rốn lách . Nhồi máu có thể do lách xoắn 360* quanh đuôi tụy .Manh trành ruột già lên ruột già ngang giãn nhưng không có tín hiệu ùn tắc , ruột non và ruột thừa thường nhật

Hình 3,4: Lách bị xoắn

Hình 5: Lách bị cắt bỏ

Hình 6: Sau khoản thời gian cắt lách

Lách bệnh nhân không xoay lại được , bóc tách mạch máu rốn lách , bảo tồn đuôi tụy , cắt lách .DD Saline rửa , đặt ống dẫn lưu Robinson ở đuôi tụy và hố chậu trái Khảo sát mô học lách cắt bỏ : mô xuất huyết trên diện rộng và thấy các cụm mô lympho . 1 số ít mạch máu chứa đầy Neutrophil , mạch máu rốn lách chứa nhiều Neutrophil ở thành mạch. Khảo sát cho thấy thêm có ap-xe ở quanh rốn lách . Không thấy U hạt hay u ác . Hậu phẫu tốt , điều trị Pen-V nối dài . Chích ngừa Hib , viêm màng não và Truất phế cầu trùng sau 2 tuần cắt lách .khuyến nghị sử dụng Aspirin để chống kết tập tiểu cầu sau cắt lách . Rút ống dẫn lưu khi kiểm tra amylase huyết thanh tron giới hạn thường nhật

Thảo luận:

Một tài liệu được thực hiện bởi Buehner và Baker Tóm lại rằng các bệnh nhân biểu hiện phổ thông nhất

: một khối không triệu chứng, trong bệnh cảnh bán cấp với những than phiền hệ tiêu hóa không đặc hiệu

và cũng luôn có thể biểu hiện bằng đạu bụng cấp tính. Việc sử dụng các xét nghiệm sinh hóa máu đã được khẳng định là không có mức giá trị trong tương trợ chẩn đoán.

Các triệu chứng có thể vẫn còn lặng im trong một thời gian dài, nhưng các biến chứng liên quan đến xoắn hay chèn lấn những đơn vị trong ổ bụng. Các biến chứng gồm có viêm tụy, tắc ruột, xoắn dạ dày, chèn lấn tá tràng, dạ dày, và cả nhồi máu lách. Lách to thường là kết quả của xoắn cuống lách và ứ đọng.

Một lá lách di đỗng thường xuất hiện ở độ tuổi từ 20 đến 40 tuổi, nhiều hơn ở phụ nữ. Trẻ em chiếm một phần ba số trường hợp, với tỷ lệ cân bằng ở các bé trai và bé gái dưới 10 tuổi.

Siêu thanh 2 chiều có thể được dùng để làm dánh giá ban sơ vị trí của lách di động bằng sự thay thế với ruột ở góc cạnh phần tư trên trái bụng. CT cản quang quẻ là phương tiện ưu tiên để đánh giá và nhận định, với sự tương trợ của cản quang quẻ giúp làm sáng tỏ sự hiện hữu của lách. Biểu hiện đặc trưng nhất là sự việc vắng mặt của lá lách ở vị trí thường nhật của nó và một khối tìm thấy tại một vị trí khác trong ổ bụng hoặc tiểu sườn. Tín hiệu xoáy của cuống lách mỡ xung quanh là đặc hiệu cho xoắn lách như trong ca bệnh của chúng tôi

Nhất mực lách là lựa chọn điều trị nếu không có nhồi máu nhưng thực hiện tháo xoắn cắt lách là cấp thiết nếu có bất kì tín hiệu nào của nhồi máu. Cần phải được theo dõi một cách thích hợp bằng các loại vaccine tránh hội chứng nhiễm trùng huyết sau cách lắt. Lý tưởng nhất là nên dùng trước lúc phẫu thuật, tuy nhiên trong cấp cứu thì không phải lúc nào cũng luôn có thể thực hiện.

You May Also Like

About the Author: v1000

tỷ lệ kèo trực tuyến manclub 789club