Người bị hại là gì? Quy định về người bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự?

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Bi hai la gi để tối ưu hóa nội dung trang web và tiếp thị trực tuyến. Bài viết cung cấp phương pháp tìm kiếm, phân tích từ khóa và chiến lược hiệu quả. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi để cập nhật kiến thức mới.

Trong quá trình xử lý vụ án hình sự, việc xác định tư cách người tham gia tố tụng có ý nghĩa khôn cùng quan trọng, hỗ trợ cho những đơn vị tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định pháp luật có liên quan; việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng sẽ dẫn đến việc xử lý vụ án hình sự không được toàn diện, triệt để.

Bạn Đang Xem: Người bị hại là gì? Quy định về người bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự?

1. Người bị hại là gì?

Trước hết, bị hại là thành viên trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, ý thức, tài sản. Thành viên này còn có thể là công dân Việt Nam, hoặc công dân nước ngoài nhưng phải là một con người cụ thể đang tồn tại. “Theo pháp luật Việt Nam, sự tồn tại đó bắt nguồn từ khi người ta sinh ra còn sống và kết thúc khi được xác định là đã chết”

Hai là, bị hại là cơ quan, tổ chức được thành lập, tồn tại và đang hoạt động hợp pháp tại thời khắc bị tội phạm gây ra, hoặc rình rập đe dọa gây ra thiệt hại.

Thiệt hại do tội phạm gây ra cũng rất đa dạng, có thể là thiệt hại về thể chất (tính mệnh, sức khỏe…); thiệt hại về ý thức (danh dự, uy tín, phẩm giá…); thiệt hại về tài sản (quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt…). Thiệt hại phải là thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra, có quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Trong một số trường hợp, do thiệt hại của tội phạm là quá to, tội phạm có thể bị xử lý ngay từ thời đoạn sẵn sàng chuẩn bị phạm tội, trong trường hợp này bị hại là thành viên, tổ chức, cơ quan mà tội phạm rình rập đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp.

Về mặt pháp lý, một người, thành viên, tổ chức, cơ quan chỉ có thể được xem là bị hại khi được cơ quan tiến hành tố tụng xác định là bị hại. Hậu quả pháp lý là bị hại có những quyền và nghĩa vụ riêng của mình được pháp luật quy định. Tuy nhiên, đây chỉ là quy định về mặt hình thức. Trong phạm vi luận văn này, tác giả xem xét bị hại dưới góc độ là chủ thể chịu thiệt hại từ tội phạm. Vì thế các chủ thể này mới có quyền làm đơn yêu cầu KTVAHS với tư cách là bị hại, mà không nhất thiết phải chờ những đơn vị có thẩm quyền xác định tư cách bị hại rồi mới có quyền làm đơn yêu cầu KTVAHS trong các trường hợp KTVAHS theo yêu cầu bị hại.

Khái niệm của bị hại đã được rất nhiều các công trình xây dựng nghiên cứu trước đó tổng kết và đưa ra. Tác giả xin đưa ra một số ví dụ như sau:

Tác giả Trịnh Quang quẻ Thắng trong luận văn thạc sĩ “Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” khái niệm: “Người bị hại là thành viên hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, ý thức, tài sản do tội phạm gây ra được cơ quan tiến hành tố tụng xác nhận”

Giáo trình luật tố tụng hình sự, ĐH Cần Thơ thì khái niệm: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, ý thức, tài sản do tội phạm gây ra”.

Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Bị hại là thành viên trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, ý thức, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc rình rập đe dọa gây ra”.

Tuy ngắn gọn và có đôi nơi khác biệt nhưng các khái niệm trên đều thừa nhận quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại của bị hại, cũng như những loại thiệt hại mà bị hại có thể phải gánh chịu do tội phạm gây nên. Tuy nhiên, với sự bổ sung tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” vào nhóm những tội KTVAHS theo yêu cầu bị hại thì việc bổ sung chủ thể là cơ quan, tổ chức vào bị hại là cấp thiết, phù phù hợp với tình hình thực tế.

Tiếp thu và tổng hợp từ những công trình xây dựng nghiên cứu trước đó, tác giả xin đưa ra khái niệm bị hại như sau: “Bị hại là thành viên, cơ quan, tổ chức chịu thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra, hoặc đe doạ gây ra về thể chất, ý thức, tài sản, uy tín”

2. Đặc điểm của bị hại:

Từ những phân tích nêu trên ta có thể rút ra một vài đặc điểm của bị hại như sau:

Thứ nhất, so với trường hợp bị hại là thành viên. Thành viên này còn có thể là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài… nhưng phải là người vẫn có sống. Điều này còn có tức là người không được sinh ra (thai nhi), hoặc người đã chết thì không được xem như là bị hại. Vì vậy, Người đã chết do tội phạm cũng không được xem như là bị hại.

Thứ hai, trường hợp bị hại là cơ quan, tổ chức. Đây là một ý kiến mới của BLHS 2015 và BLTTHS 2015, trước đó pháp luật chỉ thừa nhận bị hại là thành viên. Cơ quan, tổ chức được xem như là bị hại có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân, tuy nhiên cơ quan, tổ chức được xem như là bị hại phải được thành lập hợp pháp, và đang hoạt động, tồn tại tại thời khắc tội phạm xẩy ra. Tương tự như đặc điểm thứ nhất, cơ quan, tổ chức không còn tồn tại, hoặc đã giải thể… thì không được xem như là bị hại

Thứ ba, thiệt hại của bị hại phải do tội phạm trực tiếp gây ra, có quan hệ nhân quả và phải là thiệt hại về thể chất, ý thức, tài sản, danh dự.

Thiệt hại của bị hại phải do tội phạm trực tiếp gây ra khi tội phạm xâm phạm đến khách thể được pháp luật bảo vệ. Thiệt hại đó phải là trực tiếp, và có quan hệ nhân quả so với tội phạm. Điều đó có tức là, vì có tội phạm nên mới xẩy ra thiệt hại, những hành vi của người thực hiện tội phạm trực tiếp gây ra những tổn thất, thiệt hại, cho bị hại. Không phải trường hợp nào bị thiệt hại do | tội phạm cũng là bị hại, mà còn tồn tại thể là nguyên đơn dân sự hoặc bị đơn dân sự.

Xem Thêm : Follow là gì? “Quyền lực” của tính năng follow trên mạng xã hội

Thiệt hại của bị hại có thể là về thể chất (tính mệnh, sức khỏe…), ý thức (danh dự, phẩm giá…), tài sản. Khi đối chiếu với những thiệt hại về thể chất và tài sản | thì có thể dễ dàng xác định thiệt hại; so với những thiệt hại về ý thức, uy tín của bị hại thì nên cần phải cẩn thận cân nhắc, nhận định để xác định mức thiệt hại. Tuy nhiên, so với những tội phạm xâm phạm về ý thức, uy tín của bị hại thì phần đông đều là “tội cấu thành hình thức, tức là chỉ việc thực hiện hành vi xâm phạm đến danh dự, uy tín của bị hại thì đã đủ tham gia để cấu thành tội phạm.

3. Quyền và nghĩa vụ của bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự:

Quyền của bị hại và người đại diện thay mặt của họ được quy định tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

– Quyền được thông tin, giảng giải quyền và nghĩa vụ (điểm a khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

– Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu (điểm b khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

Đây là một trong những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo điểm b khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì bị hại hoặc người đại diện thay mặt của họ có quyền: “Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Như vậy, không chỉ những đơn vị tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có quyền đưa ra các chứng cứ, đồ vật, tài liệu mà bị hại có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án để chứng minh có hay là không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại của mình là vì hành vi phạm tội gây ra, thậm chí còn bị hại có thể chứng minh cả những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc xử lý quyền lợi của mình như việc xử lý bồi thường thiệt hại và những tình tiết khác cấp thiết cho việc xử lý đúng đắn vụ án.

– Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người dân có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, nhận định (điểm c khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

Nếu như trước đó, bị hại trong vụ án hình sự chỉ được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu thì theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015, bị hại còn tồn tại quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án song song có quyền yêu cầu người dân có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, nhận định các tài liệu, đồ vật đó. Đây là một quy định nâng cao sự dữ thế chủ động của bị hại khi tham gia tố tụng hình sự.

– Yêu cầu thẩm định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật (điểm d khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

– Quyền được thông tin kết quả điều tra, xử lý vụ án (điểm đ khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015):

Trong thời đoạn điều tra, khi cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra (Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự 2015), quyết định phục hồi điều tra (Điều 235 Bộ luật tố tụng hình sự 2015) và khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải thông tin cho bị hại, đương sự và người đại diện thay mặt hợp pháp của họ (Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).

– Quyền yêu cầu thay đổi người dân có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người thẩm định, người định giá tài sản, người thông dịch, người dịch thuật (điểm e khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015):

Khi có địa thế căn cứ để nhận định rằng người dân có thẩm quyền tiến hành tố tụng như điều tra viên, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án không vô tư trong những khi tiến hành tố tụng và người thẩm định, người định giá tài sản, người thông dịch, người dịch thuật không vô tư trong những khi tham gia tố tụng thì bị hại có quyền yêu cầu thay đổi họ (khoản 2 Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).

– Yêu cầu hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, giải pháp đảm bảo bồi thường (điểm g khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015):

Bị hại có quyền yêu cầu hình phạt so với người phạm tội để những đơn vị tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng xem xét sau khoản thời gian nhận định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xác định sự thực khách quan của vụ án. Bị hại cũng xuất hiện quyền yêu cầu mức bồi thường thiệt hại và các giải pháp đảm bảo bồi thường thiệt hại do tội phạm xâm phạm.

– Tham gia phiên tòa xét xử; trình bày ý kiến, yêu cầu chủ tọa phiên tòa xét xử hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa xét xử; tranh luận tại phiên tòa xét xử để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa xét xử (điểm h khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015):

– Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình (điểm i khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015):

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chính thức quy định đây là quyền của bị hại để họ có thể lựa chọn tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình hoặc là nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Xem Thêm : Phân Biệt Hàng Auth Và Hàng Auth Tuồn

– Tham gia các hoạt động sinh hoạt tố tụng theo quy định của Bộ luật này (điểm k khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mệnh, sức khỏe, danh dự, phẩm giá, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị rình rập đe dọa (điểm l khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

– Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án (điểm m khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

Trong trường hợp bị hại hoặc người đại diện thay mặt hợp pháp của họ chết hoặc trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người dân có nhược điểm về thần kinh hoặc thể chất có quyền kháng nghị toàn bộ bản án hoặc quyết định xét xử sơ thẩm theo phía có lợi cho bị cáo hoặc theo phía làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Trong trường hợp bị hại chỉ kháng nghị phần bản án hoặc quyết định xét xử sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, thì họ có thể uỷ quyền cho tất cả những người khác. Người được uỷ quyền có những quyền và nghĩa vụ như người đại diện thay mặt hợp pháp của nguyên đơn dân sự.

– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người dân có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm n khoản 2 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

Bị hại có nghĩa vụ:

– Có mặt theo giấy triệu tập của người dân có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;

– Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người dân có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

– Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thay mặt thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này.

– Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, thống nhất thì người đại diện thay mặt theo pháp luật hoặc tổ chức, thành viên thừa hưởng quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định.

4. Một số quy định về bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Theo như quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bị hại có những đặc điểm sau đây:

– Thứ nhất, về chủ thể bị hại gồm có là thành viên, pháp nhân, tổ chức;

– Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia gồm có: Thành viên trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, ý thức, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự việc thiệt hại không phải là tham gia bắt buộc trong tất cả những trường hợp.

– Thứ ba, thiệt hại của bị hại phải là đối tượng người dùng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là tham gia quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.

– Thứ tư, công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng xác nhận.

Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau: ”Bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, ý thức hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Bị hại là thành viên trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, ý thức, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc rình rập đe dọa gây ra. Nếu bị hại là người chưa thành niên, người dân có nhược điểm về thể chất hoặc thần kinh thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện thay mặt hợp pháp của bị hại. Trong trường hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư cách là đại diện thay mặt hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức thì đại diện thay mặt theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tham gia với tư cách là đại diện thay mặt hợp pháp của bị hại. Trường hợp người đại diện thay mặt theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng được thì cơ quan, tổ chức phải cử người khác làm đại diện thay mặt hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi người đại diện thay mặt thì pháp nhân phải thông tin ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”

Tóm lại: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại là rất quan trọng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, tuy nhiên trong thực tiễn việc xác định chuẩn xác bị hại cần nghiên cứu kỹ để tránh xác định sai tư cách tham gia tố tụng.

You May Also Like

About the Author: v1000