Tại sao Bình Định Phú Yên gọi là xứ Nẫu?

Xứ Nẫu là cụm từ thân yêu và đặc biệt quan trọng để nói về vùng đất Tỉnh Bình Định, Phú Yên. Dọc miền Tổ Quốc có nhiều vùng văn hóa truyền thống khác biệt đã làm ra tên tuổi và cách nhận diện địa danh. Trong số đó, vùng xứ Nẫu nổi tiếng với những bờ biển xanh trong, món ăn thắm thiết, tính cách hào sảng. Và tuyệt hảo nhất là giọng nói của người Xứ Nẫu mang một thanh âm gần gụi, nghe nhiều sẽ ghiền. Vậy vì sao gọi là xứ Nẫu? Hãy cùng Quy Nhơn Tourist giải thuật kì lạ này các bạn nhé!

1. Nói chung nguồn gốc xứ Nẫu

Theo dòng lịch sử dân tộc Việt Nam, vào năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan có nghĩa vụ đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả (tỉnh Phú yên thời điểm hiện nay). Sau 33 năm khai phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa.

Một góc đường Lê Thánh Tôn, Quy Nhơn năm 1968. Ảnh: Sưu tầm

Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên. Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như Phường, Nậu, Man. Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu. Ví dụ: Nậu nguồn chỉ nhóm người khai thác rừng, Nậu nại chỉ nhóm người làm muối, Nậu rổi chỉ nhóm người bán cá, Nậu rớ chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, Nậu cấy chỉ nhóm người đi cấy mướn, Nậu vựa chỉ nhóm người làm mắm…

Phong cảnh biển Sông Cầu, Phú Yên. Ảnh: Du lịch Sông Cầu

Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử Đại ký lục đích danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi, chức năng của đa số đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như Thuộc, Nậu bị xóa sổ. Khái niệm thành tố chung cấp hành chính Nậu được biến nghĩa dùng để làm gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để làm gọi đại từ nhân xưng thứ bực ba. Từ Nậu không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổng hợp danh ngữ: Ví dụ:

-Mất chồng như nậu mất trâu

Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm.

– Tiếc công anh đào ao thả cá

Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu.

– Ai về nhắn với nậu nguồn

Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.

2. Đặc điểm cơ bản nhận diện Xứ Nẫu

Từ chữ Nậu lúc đầu, phương ngữ Phú Yên – Tỉnh Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng thứ bực ba (cả số ít và số nhiều) bằng phương pháp thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ: Ông ấy, bà ấy được thay bằng: ổng, bả. Anh ấy, chị ấy được thay bằng: ảnh, chỉ. Và thế là Nậu được thay bằng Nẩu.Nẫu đã đi vào ca dao Tỉnh Bình Định, Phú Yên khá mượt mà, chất phác:

Ai về sông núi Phú Yên

Cho nẫu nhắn gở nỗi niềm nhớ quê

Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa – Quảng Nam) với mô, tề, răng, rứa, chừ, vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Tỉnh Bình Định – Tỉnh Quảng Ngãi) được đổi thành đâu, kia, sao, vậy, giờ. Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Tỉnh Bình Định – Phú Yên) không phân biệt rẽ ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt quan trọng, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Tỉnh Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu – Phú Yên), các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi. Riêng đồng bằng Tuy Hòa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã.

Quy Nhơn ngày này là thành phố biển sạch sẽ và đẹp mắt. Ảnh: Thanh Niên Trực Tuyến

Bởi vậy, Nẩu hay được phát âm là Nẫu. Đồng bằng Tuy Hòa trù phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cháu đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ Nẩu theo phát âm quen mồm thành chữ Nẫu. Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Tỉnh Bình Định và Phú Yên có tức là họ, hay người ta, vì là đại từ nhân xưng nó nằm ở vị trí thứ bực ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều.

Ví dụ thay vì hỏi Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy? thì người dân Tỉnh Bình Định và Phú Yên hỏi là Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy? hay Cái nhà này là của họ thì dân Nẫu sẽ nói là Cái nhà nhà này là của nẫu. Chính vì vậy mà khi hòa cùng tất cả tiếng nói của mọi miền tổ quốc thì tiếng nẫu sẽ không còn lạc vào đâu được, thậm chí là còn dùng những từ hoàn toàn khác với những từ thông dụng, ví dụ thay vì nói Vào tận trong đó thì nói là Dô tuốt trỏng hay hỏi vậy hả? thì hỏi là „dẫy na?, dẫy ngheng (vậy nghen hay thế nhé), dẫy á (vậy đó), chu cha wơi (trời đất ơi) v.v…

3. Thanh âm xứ Nẫu trong đời sống cộng đồng

Người Việt mình từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đã nổi tiếng là nhà quê, cho dù có ở thành thị thì vẫn là dân nhà quê so với những nước khác. Vậy thử hỏi trong đất Việt Nam mình, xứ nào là nhà quê nhứt? Đó đây chính là xứ Nẫu. Tôi đi khắp Việt Nam, ai hỏi tôi quê đâu? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi…

Vì sao quê, vì ngay cái chữ Nẫu nghe nó đã quê rồi. Nó khởi thủy là chữ nậu, là một từ cổ ở miền Trung Nam Bộ, theo cụ Vương Hồng Sển, nó cổ đến mức gần như thể nguyên thủy, ngày này không còn ai dùng. Từ nậu để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở: ví dụ: Nậu nguồn chỉ nhóm người trên rừng, Nậu nại chỉ nhóm người làm muối, Nậu rổi chỉ nhóm người bán cá, Nậu rớ chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, Nậu cấy chỉ nhóm người đi cấy mướn, Nậu vựa chỉ nhóm người làm mắm… mãi sau, bằng nguyên tắc tăng âm đặc trưng của dân Việt mình: ông + ấy = ổng, chị + ấy = chỉ, thì cái nậu + ấy= Nẫu.

Cá ồ nướng, món ăn đặc trưng của xứ Nẫu. Ảnh: Sưu tầm

Xứ Nẫu xuất phát điểm từ Tỉnh Bình Định, Phú Yên và một phần của Khánh Hòa. Cũng như các vùng miền khác, mà sớm nhất có thể là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hồ hết các âm tiết đều bị biến dạng theo phía nặng hơn, khó phát âm hơn…khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu trúc thanh quản của dân xứ Nẫu đã khác đi so với những người xứ khác. Nẫu (người ta), rầu (rồi), cái đầu gấu (gối), trời tấu (tối), cái xỉ (muỗng), tộ (chén)…người xứ Nẫu nói cho tất cả những người xứ Nẫu nghe, cho nên từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng trình trịch, nhưng mà nặng nhất là cái tình:

Thương chi cho uổng công tình

Nẫu dzìa xứ nẫu, bỏ mình trơ tráo.

4. Tính cách con người xứ Nẫu

Hồi nhỏ, mỗi lần tôi làm điều gì không đúng, ông nội tôi thường nói: đửng làm dẫy, nẫu cừ (đừng làm vậy, người ta cười), nhưng cũng tồn tại khi ông nội cho tôi thoải mái, muốn làm gì thì làm, kể cả vấn thuốc rê của ổng ra sân ngồi hút phì phèo như người lớn, vì: nẫu cừ thì kệ nẫu cừ, nẫu cừ lạnh bụng, hở mười cái răng. Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cục mịch, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch…

Tháp Chăm là đặc sản nổi tiếng văn hóa truyền thống của xứ Nẫu. Ảnh: Tháp Nhạn – Quy Nhơn Go

Dân Nẫu đi đến đâu cũng là dân nhà quê, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc nẫu của mình. Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc. Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế. Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam. Nẫu là Nẫu. Nẫu dzẫy (nậu vậy), Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về tay, tốt xấu gì rồi cũng mặc, kệ nẫu. Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn….

Về thăm xứ Nẫu thân yêu để khám phá nét đẹp trong văn hóa truyền thống, tâm hồn con người Tỉnh Bình Định, Phú Yên. Một xứ Nẫu thân thiện, yêu mến khách và rất đỗi nhiệt tình. Hãy khám phá xứ Nẫu để cảm nhận thêm giá trị tinh hoa của một vùng đất thú vị.

Theo Quy Nhơn Tourist tổng hợp

Hãy Gọi Ngay 0979 53 59 59 (Hotline) để được Tư Vấn Trực Tiếp và nhận được NHIỀU CHƯƠNG TRÌNH ƯU ĐÃI chỉ có ở Quy Nhơn Tourist.

You May Also Like

About the Author: v1000