Vè là gì?
I. Khái niệm.
Vè là thể loại văn học dân gian kể chuyện bằng văn vần, được diễn xướng dưới hình thức nói hoặc kể nhằm phản ánh kịp thời những người dân thực, việc thực tế một địa phương nhất định để bộc lộ thái độ khen chê của nhân dân.
Vè giống như một loại khẩu báo (báo mồm). Tính chất thời sự, tính chất kể chuyện, tính chất địa phương, tính chất mộc mạc, không trau chuốt là những đặc điểm chung nổi trội của vè.
Vè được tuân theo nhiều thể văn vần khác nhau (như lục bát, song thất lục bát, thể hát giặm Nghệ Tĩnh,.. nhưng phổ thông nhất là thể lục bát.
II. Phân loại.
Về đề tài, vè gồm hai loại chính: vè thế sự và vè lịch sử vẻ vang.
1. Vè thế sự (hay vè sinh hoạt):
Vè thế sự hướng về sinh hoạt thường ngày nhằm phản ảnh kịp thời những sự việc đáng lưu ý xẩy ra trong đời sống hằng ngày của nhân dân (thường là người thật việc thật). Những câu truyện kể trong vè thế sự có những điểm gần gụi với truyện cổ tích sinh hoạt (nhưng không nói về những chuyện xẩy ra trong quá khứ mà nói về những chuyện ngày nay như chuyện một đám cưới lớn, một đám ma to, chuyện làm đình, bắc cầu, đào sông, đào giếng, đi lính, đi phu, lụt bão, thất bát…). Chính vì đề tài cuộc sống sinh hoạt phong phú như vậy nên vè sinh hoạt được sáng tác nhanh hơn, nhiều hơn, thường xuyên và rộng khắp hơn. Không ở đâu mà tiếng nói của đời thường đi vào một trong những cách nhanh chóng trực tiếp như ở vè sinh hoạt.
2. Vè lịch sử vẻ vang.
Vè lịch sử vẻ vang hướng về những sự kiện và nhân vật có ảnh hưởng tác động quan trọng và rộng lớn trong cả vùng hoặc toàn nước (ví dụ: vè Vợ ba Cai Vàng, vè Bà Thiếu phó, vè Thất thủ kinh đô,…). Vè lịch sử vẻ vang và diễn ca lịch sử vẻ vang tuy có chỗ gần nhau (về nội dung, về sự việc dài hơi, …) nhưng khác nhau nhiều, cần phân biệt rõ.
Có những điểm liên hệ gần gụi giữa truyền thuyết lịch sử vẻ vang và vè lịch sử vẻ vang. Nhưng tất nhiên hai thể lại này sẽ không hề giống nhau. Trên thực tế, khi tiếp cận với những thể loại văn học dân gian, không thực sự khó khăn để phân biệt truyền thuyết lịch sử vẻ vang với vè lịch sử vẻ vang. Nhưng không phải không có người nhầm lẫn giữa vè lịch sử vẻ vang và diến ca lịch sử vẻ vang Diễn ca lịch sử vẻ vang hay sử ca thuộc loại các tác phẩm văn học viết nhưng được dân gian thông thuộc như Thiên Nam ngữ lục, Đại Nam quốc sử diễn ca.
Diễn ca lịch sử vẻ vang lấy lịch sử vẻ vang làm đề tài (hay đối tượng người sử dụng phản ánh), dùng hình thức văn vần kể lại những sự kiện đã xẩy ra trong quá khứ mà tác giả không trực tiếp tận mắt chứng kiến. Trong những khi đó, vè lịch sử vẻ vang lấy đề tài là những biến cố, những sự kiện lịch sử vẻ vang đương thời đang diễn ra hoặc vừa mới diễn ra nhằm phản ánh kịp thời trực tiếp những gì mà tác giả là người đã ít nhiều được tận mắt chứng kiến hay được sống trong không khí toàn cảnh lịch sử vẻ vang ấy. Đó là trường hợp của không ít bài Vè vợ ba Cai Vàng, Vè thất thủ kinh đô, Vè Tây chiếm tỉnh Thanh, Vè chàng Lía. Như vậy, tính thời sự là đặc điểm chung cũng là đặc điểm nổi trội của vè lịch sử vẻ vang. Đó đó là nơi khác nhau cơ bản giữa vè lịch sử vẻ vang và diễn ca lịch sử vẻ vang.
So với tiểu loại này, sự tham gia sáng tác và lưu truyền của dân gian sâu rộng hơn. Tất nhiên những nhân vật lịch sử vẻ vang và những biến cố lịch sử vẻ vang bao giờ cũng luôn tồn tại ảnh hưởng tác động thâm thúy so với nhân dân. Vì thế, khi một bài vè lịch sử vẻ vang ra đời, nó đã nhanh chóng vượt thoát khỏi địa phương sinh thành để trở thành một sản phẩm chung với tính dân tộc bản địa rất cao. Lúc đó, những sự kiện, con người thắm thiết chất xác thực – người thật việc thật – thuở đầu đã được trí tưởng tượng và lòng kính trọng của dân gian nhào nặn thêm để rồi một phòng ban không nhỏ đã trở thành những tác phẩm văn học dân gian đạt giá trị cao về nội dung và hình thức.
Vè dù là vè lịch sử vẻ vang hay vè thế sự (vè sinh hoạt) đều mang tính chất thời sự, nói về những người dân thực việc thực mà tác giả ít nhiều được trực tiếp tận mắt chứng kiến (mắt thấy tai nghe). Còn lịch sử vẻ vang và diễn ca chỉ là sự việc kể lại bằng lời ca những sự kiện và nhân vật lịch sử vẻ vang đã diễn ra trong quá khứ (tác giả chỉ là người viết lại, kể lại chuyện cũ mà thôi).
III. Đặc trưng.
Cho tới nay, vẫn chưa xác định rõ ràng cụ thể thời khắc xuất hiện của vè nhưng theo nhiều ý kiến của không ít nhà nghiên cứu thì vè phát sinh và phát triển chủ yếu trong thời kì phong kiến và thời đoạn cận kim (thế kỷ thứ XVIII, XIX, đầu XX – tức là từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh về sau). Bài “Vè ông Ninh” (kể về ông Ninh Quốc Công Trịnh Toàn – em cùng cha khác mẹ với chúa Tây Đô Vương Trịnh Tạc 1657 – 1682) có thể xem là một trong những bài vè đời sớm sót lại đến nay.
Vè là một thể loại văn học dân gian có chức năng, đặc điểm riêng không lộn lạo với bất kỳ một thể loại văn học dân gian nào khác. Tính thời sự, tính xác thực cụ thể, tính địa phương là những đặc điểm chung, vô cùng nổi trội của thể loại này.
Tính thời sự:
Vè phản ánh người thật việc thật, những sự kiện vừa mới xẩy ra, những con người đương thời. Những sự kiện, con người này được sự quan tâm lưu ý của nhân dân ở vùng, làng có lúc còn ảnh hưởng tác động, có tiếng vang rộng hơn ở địa phương ( như xã, huyện, tỉnh… hoặc toàn quốc).
Vè ghi nhanh, kịp thời, cụ thể các sự kiện và nhân vật gắn liền với sự kiện ấy. Như đã nói, đây là một loại thông tin bằng mồm của quần chúng nhân dân, một loại báo chí truyền thông truyền miệng của dân gian.
Vè ít có hư cấu trong nội dung. Các yếu tố thời kì, không gian, nhân vật sự kiện hầu như đều được xác định rõ ràng cụ thể. Ví dụ: Vè Bão năm Thìn 1904, Vè Trương Định.
Tính địa phương:
Vè ra đời gắn với địa phương và thường giới hạn sự phổ thông trong địa phương ấy. Khi sự việc có tính tiêu biểu thì vè mới được phổ thông rộng hơn. Ví như Vè Đi ở, Vè về các nhân vật lịch sử vẻ vang, Vè chống Pháp….
Tính thiên hướng tư tưởng:
Không chỉ kể lại sự việc câu truyện, vè còn giãi bày thái độ ý kiến, sự bình giá của nhân dân so với sự kiện, nhân vật ấy. Đó là thái độ khen chê rõ ràng dứt khoát ví dụ như chê bai những anh hay đánh vợ, phê phán những cặp vợ chồng làm biếng, khinh ghét bon cường hào ác bá, ca tụng, kính trọng những nhân vật hero. Các tác giả dân gian thường đứng trên lập trường ý kiến, tư tưởng tình cảm và lý tưởng thẩm mỹ của nhân dân mà thuật kể, mà bình phẩm, thẩm định.
Tính member:
Vai trò member có vị trí và ý nghĩa rất quan trọng ở khâu sáng tác và kể vè. Dấu ấn member của tác giả thể hiện rõ ở nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ vè. Và vì là một loại báo chí truyền thông dân gian, làm thế nào để cho dân gian dễ nhớ, dễ lưu truyền trong những khi dung tích truyện kể trong vè thường không ngắn như ca dao nên câu vè thường ngắn gọn, có vần có điệu, lời lẽ đơn giản, mộc mạc, nôm na. Yếu tố vần được lưu ý hơn hết (dù thỉnh thoảng gieo vần theo phong cách áp đặt khiên cưỡng), ngoài ra những yếu tố khác tương đối sơ sài, lỏng lẻo.
IV. Thi pháp.
1. Tiếng nói.
Do mục tiêu và nội dung sáng tác khá đặc biệt quan trọng nên tiếng nói vè giản dị, mộc mạc, không cầu kỳ và quá trau chuốt, sử dụng nhiều tiếng địa phương thân thuộc, thỉnh thoảng không loại trừ cả những từ ngữ nôm na. Để sáng tác kịp thời, phản ánh cụ thể, rõ ràng và cụ thể về người thật việc thật, các tác giả dân gian chỉ đặc biệt quan trọng lưu ý đến nội dung thông tin truyền đạt mà hầu như không quan tâm đến việc gọt giũa và trau chuốt về hình thức. Cho nên dù hình thức của vè có phong phú đa dạng thì cũng là sự việc phong phú đa dạng trong trạng thái tự nhiên, thô phác, mộc mạc. Những từ ngữ giàu hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng trong ca dao ít được sử dụng trong lối kể vè.
Tuy nhiên do tính chất phổ thông rộng rãi hơn, đối tượng người sử dụng tiếp nhận cũng phong phú đa dạng hơn, trong đó không ít người là những nghệ nhân tài hoa trong lối kể vè, sáng tác vè; tiếng nói vè lịch sử vẻ vang thường đạt yêu cầu gọt giũa tốt hơn loại vè sinh hoạt (do vè sinh hoạt đáp ứng nhu cầu thông tin tức thời).
2. Thể thơ.
Các thể thơ dân gian được sử dụng trong vè rất rộng rãi, tự do (Tùy theo tính chất của đề tài và sở trường của tác giả vè mà lựa chọn thể thơ thích hợp) Vì thế nói đến thể thơ trong vè là nói tới sự việc phong phú với những thể văn vần khác nhau. Có thể nói đến là 4 chữ (có xen 3 chữ), 5 chữ, lục bát, song thất lục bát, nói lối, hỗn hợp…
3. Kết cấu.
Kết cấu của vè đi theo công thức kết cấu của một tác phẩm tự sự. Tức là có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Đa phần nội dung trong một bài vè – nhất là vè lịch sử vẻ vang và vè thế sự- thường là một câu truyện kể có tình tiết, có nhân vật, có xích mích, xung đột. Kết cấu của vè là kết cấu của một tác phẩm tự sự bằng văn vần.
Phần mở đầu, có một số bài vè đi theo công thức:
- Lẳng lặng mà nghe…
- Nghe vẻ nghe ve…
- Ve vẻ vè ve…
- Ngồi buồn đặt một chuyện vè
- Làng trên xã dưới ngồi nghe tỏ tường…
Tuy nhiên, một số bài vè trữ tình (vè than thân, trách phận , giải bày tâm trạng) có kết cấu linh hoạt hơn. Ví dụ: Vè đi ở, Vè đi phu, Vè người làm lẽ….