Bệnh thủy đậu: Dấu hiệu, nguyên nhân và cách chẩn đoán

Chúng tôi rất vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Varicella la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Bệnh thủy đậu (còn gọi là bệnh trái rạ) từng bị nhầm lẫn với bệnh đậu mùa suốt thời kì dài cho tới tận thế kỷ 19. Bệnh phổ thông ở trẻ em dưới 10 tuổi và khai mạc tụt giảm từ thời điểm năm 1970 khi có những nhà khoa học tìm ra được vắc xin ngừa thủy đậu. Vậy bệnh thủy đậu là gì?

Bạn Đang Xem: Bệnh thủy đậu: Dấu hiệu, nguyên nhân và cách chẩn đoán

benh thuy dau

Thuỷ đậu là gì?

Thủy đậu là bệnh nhiễm trùng do vi rút varicella-zoster gây ra. Vi rút này còn có kích thước khoảng tầm 150- 200mm, với nhân là AND. Người mắc bệnh sẽ phát ban, nổi mụn nước nhỏ có chứa đầy dịch, gây ngứa. Bệnh rất dễ lây cho những người dân không được tiêm vắc xin hoặc trước đó chưa từng nhiễm vi rút varicella-zoster.

trieu chung benh thuy dau

Bệnh thủy đậu được mô tả từ thời cổ đại nhưng y khoa thời bấy giờ nhận định rằng đây là dạng bệnh đậu mùa nhẹ. Mãi đến năm 1765, nhà khoa học Vogel đặt tên bệnh thủy đậu là Varicella. Năm 1767, thầy thuốc người Anh William Heberden đã chứng minh bệnh đậu mùa khác với bệnh thủy đậu. Lần trước nhất, bệnh thủy đậu được mô tả có bệnh cảnh lâm sàng riêng biệt. Tiếp tục vào năm 1875, nhà khoa học Rudolf Steiner cho thấy bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm. Cuối cùng bệnh thủy đậu được nhà khoa học Thomas Weller phân lập được virus varicella vào năm 1954. Nhà vi rút học Nhật Bản Michiaki Takahashi đó chính là người đã phát triển trực tiếp vắc xin thủy đậu vào năm 1972.

dau hieu benh thuy dau
Các mụn nước bệnh thủy đậu

Nguyên nhân gây bệnh thuỷ đậu

Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp qua đường hô hấp như ho khan, hắt xì và lây gián tiếp khi xúc tiếp với nước miếng, dịch tiết, chất lỏng từ mụn nước. Vi rút gây bệnh bằng phương pháp xâm nhập vào niêm mạc đường hô hấp trên (mồm, hầu họng) và cũng sẽ có thể là đường tiêu hoá, kết mạc mắt nhưng hiếm gặp. Vi rút varicella-zoster có thể lây cho những người dân xung quanh chỉ trong một – 2 ngày trước lúc người bệnh xuất hiện mụn nước. Vi rút gây bệnh thủy đậu chỉ ngừng lây khi tất cả những mụn nước đã đóng vảy. Và các nhà khoa học đã hồi cứu và nhận thấy hồ hết nguyên nhân gây bệnh thủy đậu là vì xúc tiếp với những người bệnh. (1)

Triệu chứng bệnh thuỷ đậu qua từng thời đoạn

Sau 10 – 21 ngày xúc tiếp với vi rút varicella-zoster, người bệnh có triệu chứng nổi mụn nước trên da niêm mạc, ngứa do nhiễm trùng, phát ban, ban mọc thành nhiều đợt cách nhau 3-4 ngày. Bệnh thủy đậu thường nối dài khoảng tầm 5 – 10 ngày. Ngoài ra, người bệnh còn tồn tại thể gặp các tín hiệu bệnh thủy đậu như: Sốt, ăn mất ngon, đau đầu, mỏi mệt và cảm giác khó chịu trong người. (2)

Thời đoạn ủ bệnh

Vi rút gây bệnh thủy đậu có thời kì ủ bệnh từ 2 đến 3 tuần. Tùy thuộc vào sức khỏe và đối tượng người dùng nhiễm bệnh mà thời kì ủ bệnh ở mỗi người rất khác nhau, trung bình nối dài từ 10 – 20 ngày.

Thời đoạn phát bệnh

Khi khai mạc phát bệnh, người bệnh có biểu hiện mỏi mệt, nhức đầu, đau cơ, chán ăn, nôn ói, sốt nhẹ, chảy nước mũi, đau họng. Và 1 – hai ngày sau đó, trên da người bệnh sẽ xuất hiện các mẩn ngứa red color khắp các vùng da, với đường kính vài mm, khai mạc ở vùng đầu, mắt rồi lan ra toàn thân. Một số người bệnh còn xuất hiện hạch sau tai, viêm họng.

Thời đoạn toàn phát

Các mụn nước hay còn gọi là ban dạng phỏng nước xuất hiện nhanh chóng trong vòng 1 ngày sau đó. Ban đỏ chuyển thành mụn nước hình tròn, với đường kính 1-3mm, chứa chất dịch bên trong white color hoặc trắng đục, nếu bội nhiễm vi trùng thì dịch sẽ kèm theo mủ. Ban mọc nhiều ở vùng ít bị tì đè như vùng liên bả, bên sườn, nách, kheo, có khi dày đặc ở mặt và thân mình, chân tay thì ít ban hơn. Ban đỏ mọc nhiều đợt trên cùng một vùng da, do đó người bệnh sẽ thấy ban mọc ở nhiều mức độ khác nhau từ nốt sẩn, bọng nước trong, bọng nước đục hoặc đóng vảy. Người mắc bệnh thủy đậu có thể nổi từ vài mụn nước cho tới hàng trăm mụn nước trên thân thể.

Một khi phát ban thủy đậu xuất hiện, nó sẽ có được màu màu hồng hoặc đỏ (sẩn). Các mụn nước nhỏ chứa đầy chất lỏng (mụn nước), hình thành trong khoảng tầm 1 ngày, sau đó vỡ và rỉ dịch. Sau đó, các mụn nước bị vỡ mất thêm vài ngày để lành vết thương. Trong thời kì đó, các mụn nước mới tiếp tục xuất hiện Bệnh thủy đậu thường nhẹ ở trẻ em khỏe mạnh nhưng ở một số ca, ban có thể phủ rộng toàn bộ thân thể, có thể hình thành tổn thương ở cổ họng, mắt và niêm mạc niệu đạo, lỗ đít và âm đạo.

Thời đoạn hồi phục

Bệnh nối dài từ 7 – 10 ngày, vảy tiết thường rụng sau 1-3 tuần. Nếu bệnh thủy đậu không có biến chứng thì những mụn nước sẽ khô dần, bong vảy, thâm da nơi nổi mụn nước, không để lại sẹo. Nhưng nếu người bệnh bị nhiễm trùng mụn nước thì sẽ có được thể để lại sẹo, đặc biệt quan trọng nếu bị bội nhiễm, một số có nền hơi lõm, có thể thành sẹo một thời kì dài hay sẹo vĩnh viễn.

Đối tượng người dùng nào có nguy cơ nhiễm bệnh thuỷ đậu

Thời kỳ lây truyền bệnh thủy đậu của vi rút varicella-zoster là 1-2 ngày trước lúc phát ban và cho đến lúc tất cả những mụn nước vỡ đóng vảy. Vậy đối tượng người dùng nào có nguy cơ nhiễm bệnh thủy đậu? Bệnh thủy đậu xẩy ra phổ thông ở trẻ dưới 10 tuổi, nhưng điều này sẽ không có nghĩa người lớn không mắc bệnh. Tất cả mọi lứa tuổi đều phải có thể mắc bệnh thuỷ đậu và trẻ em từ 6 tháng tuổi đến 7 tuổi là đối tượng người dùng dễ nhiễm vi rút nhất. Riêng ở người lớn (trên 20 tuổi) thì tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu thấp hơn, khoảng tầm 10% do đã có miễn nhiễm.

Người đã mắc bệnh thủy đậu thì thường có miễn nhiễm miễn nhiễm vững bền suốt đời, tuy nhiên cũng có tầm khoảng 1% tái nhiễm. Một số người dân có thể bị thủy đậu nhiều hơn một lần trong đời, nhưng trường hợp này rất hiếm. Với những người dân đã tiêm vắc xin thủy đậu mà vẫn mắc bệnh thì những triệu chứng bệnh thường nhẹ hơn, ít mụn nước và nhẹ hoặc không sốt.

nguyen nhan gay benh thuy dau

Biến chứng nguy hiểm bệnh thuỷ đậu có thể gặp?

Xem Thêm : Visual Studio là gì? Những tính năng cần thiết của Visual Studio

Từ thời xa xưa, bệnh thủy đậu từng được xem là bệnh đậu mùa nhẹ, điều này chứng minh cho việc bệnh được xếp vào nhóm bệnh nhẹ. Tuy nhiên, bệnh vẫn trở nên nghiêm trọng ở người bệnh không được chăm sóc y tế, không tuân theo phía dẫn của thầy thuốc điều trị.

Một số biến chứng bệnh thủy đậu có thể gây nguy hiểm có thể nói đến như: (3)

  • Nhiễm khuẩn da, mô mềm, xương, khớp và nhiễm trùng máu là biến chứng thường gặp nhất. Chính các vết mụn nước vỡ ra, lại ngứa khó chịu nên nhiều người dùng tay bẩn “xâm phạm” vết thương hoặc vệ sinh không đúng cách dẫn đến chảy máu bên trong, nhiễm trùng. Đây là biến chứng thường gặp ở trẻ nhỏ không “kìm chế” được mụn nước đang ngứa ngáy khó chịu.
  • Viêm não là biến chứng có thể xẩy ra ở trẻ em và người lớn nhưng người lớn gặp nhiều hơn, có thể tử vong nếu không điều trị kịp thời. Biến chứng thường xuất hiện sau một tuần lễ người bệnh nổi mụn nước. Khi gặp biến chứng này, người bệnh có thể kèm theo những triệu chứng sốt cao, hôn mê, co giật, rối loạn tri giác, rung giật nhãn cầu. Biến chứng này còn có thể gây tử vong nếu không chữa trị kịp thời.
  • Viêm phổi thủy đậu với biểu hiện ho nhiều, ho ra máu, không thở được, tức ngực là biến chứng thủy đậu thường xẩy ra ở người trưởng thành, vào trong ngày thứ 3 – 5 sau lúc bệnh phát khởi.
  • Viêm thận, viêm cầu thận cấp cũng là biến chứng do thủy đậu gây ra, ban mọc muộn vào trong ngày thứ 3, thứ 4 của bệnh. Tín hiệu dễ quan sát nhất là người bệnh đi tiểu ra máu, suy thận.
  • Viêm khớp tràn dịch cũng gặp ở các thể nặng, các khớp có viêm và tràn dịch, ít khi thành mủ. Chưa tính, ở một số trường hợp, bệnh thuỷ đậu có thể kết phù hợp với một bệnh truyền nhiễm khác cùng xuất hiện như bạch hầu, ho gà, sởi. Khi mắc cùng lúc nhiều dạng bệnh này thì tình trạng người bệnh thường nặng lấn lướt lâm sàng bệnh thuỷ đậu.

Nếu một người đã trở nên thủy đậu vẫn có nguy cơ bị một biến chứng khác, đó là bệnh zona. Vi rút gây bệnh thủy đậu varicella-zoster vẫn còn tồn tại trong các tế bào thần kinh sau lúc vết mụn nước nhiễm trùng trên da đã lành. Nhiều năm tiếp theo, nếu thân thể lớn tuổi hoặc hệ miễn nhiễm suy yếu thì vi rút đó có thể tái hoạt động và tái phát thành bệnh zona – một đám mụn nước gây đớn đau trong thời kì ngắn. Cơn đau do giời leo có thể nối dài sau lúc mụn nước này biến mất. Triệu chứng đau này được gọi là chứng đau dây thần kinh dạng postherpetic và có thể nghiêm trọng.

Ngoài ra, người bệnh thủy đậu có thể gặp một số biến chứng như viêm tai giữa và tai ngoài, viêm niêm mạc mồm, viêm cơ tim, viêm hạch lympho, viêm dây thần kinh, hội chứng Croup giả, viêm thanh quản do các nốt mụn thủy đậu mọc ở khu vực này gây lở loét, nhiễm trùng gây sưng tấy. Hay biến chứng mất nước, hội chứng sốc nhiễm độc, hội chứng Reye ở trẻ em và thanh thiếu niên dùng thuốc aspirin trong điều trị bệnh thủy đậu.

Những đối tượng người dùng dễ bị biến chứng khi mắc thủy đậu gồm: Trẻ sơ sinh có mẹ trước đó chưa từng bị bệnh thủy đậu hoặc chưa chủng ngừa; thai phụ chưa mắc bệnh, người suy yếu miễn nhiễm như HIV, hóa trị, dùng thuốc ức chế miễn nhiễm, hen suyễn,…

Bệnh thuỷ đậu có lây không?

Bệnh thủy đậu do vi rút varicella-zoster lây truyền, chủ yếu khi thời tiết ấm nồm như ngày xuân, là thời khắc tiện lợi cho bệnh lây lan cấp tính. Vi rút có thể lây lan khi xúc tiếp trực tiếp với vùng phát ban. Hoặc vi rút lây lan khi người bị bệnh thủy đậu ho hoặc hắt xì và người lành hít phải các giọt không khí chứa vi rút. Riêng thai phụ bị thủy đậu 5 ngày trước sinh hoặc hai ngày sau sinh có thể truyền nhiễm thủy đậu từ mẹ sang con, thai nhi sinh ra có thể bị khuyết tật hoặc tử vong. Nhiều chứng cớ y khoa ghi nhận, trẻ sơ sinh nhẹ cân và thất thường về thủ công thường gặp hơn khi thai phụ mắc thủy đậu. Khi người mẹ bị nhiễm thủy đậu trong tuần trước lúc sinh hoặc trong vài ngày sau lúc sinh, thai nhi không chỉ có nguy cơ cao bị nhiễm trùng nghiêm trọng mà còn rình rập đe dọa tính mệnh như thai chết lưu. Do đó, với phụ nữ đang mang thai cần kiểm tra sức khỏe xem có mắc bệnh thủy đậu chưa, để thầy thuốc theo dõi thai kỳ và được đặt theo hướng xử lý kịp thời. (4)

Nếu như bạn đang mang thai và không có miễn nhiễm với bệnh thủy đậu, hãy nói chuyện với thầy thuốc về những rủi ro khi đối chiếu với bạn và thai nhi của bạn.

Phương pháp chẩn đoán bệnh thuỷ đậu

chan doan benh thuy dau
Xét nghiệm để phát hiện bệnh thủy đậu.

Để chẩn đoán bệnh thủy đậu, trước hết thầy thuốc thường loại trừ một số bệnh có triệu chứng hoặc biến chứng gần giống bệnh thủy đậu gây ra như: chốc lây dạng bọng nước, Herpes simplex lan tràn, Eczema dạng ecpét, Eczema do vaccine, nhiễm Rickettsia, nhiễm enterovirus.

Việc chẩn đoán bệnh thủy đậu chủ yếu dựa vào các tín hiệu lâm sàng như: người bệnh chưa tiêm vắc xin và chưa mắc thuỷ đậu, người bệnh bị truyền nhiễm vi rút trong khoảng tầm thời kì từ 2 – 3 tuần trước đó đó,…

Ngoài ra, người bệnh còn được thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng như: bạch huyết cầu máu ngoại vi giảm, lympho bào tăng, miễn nhiễm huỳnh quang đãng, soi tìm vi rút, phân lập vi rút, xét nghiệm chẩn đoán huyết thanh,…

Phương pháp điều trị bệnh thuỷ đậu

Bạn đi gặp thầy thuốc để khám bệnh nếu gặp những tín hiệu như có xúc tiếp người bệnh thủy đậu, mỏi mệt, nhức đầu, đau cơ, chán ăn, nôn ói, sốt nhẹ, chảy nước mũi, đau họng, nổi mẩn ngứa red color khắp các vùng da. Nhất là phát ban lan sang một hoặc cả hai mắt., phát ban rất đỏ, ấm hoặc mềm thì có thể là tín hiệu của nhiễm trùng da thứ phát do vi trùng. Hoặc phát ban kèm theo chóng mặt, mất phương hướng, tim đập nhanh, không thở được, run, các cơ mất phối hợp, ho, nôn mửa, cứng cổ hoặc sốt cao trên 38,9 độ C.

Với bệnh thủy đậu hiện nay, bên cạnh việc điều trị triệu chứng, thầy thuốc sẽ cho sử dụng thuốc để người bệnh mau hồi phục.

Cụ thể, trẻ nhỏ thường mau khỏi bệnh nên thường điều trị triệu chứng, giảm đau, ngứa và ngăn không cho trẻ gãi để tránh nguy cơ nhiễm trùng. Thay vào đó, khi trẻ bị ngứa ngáy, thầy thuốc hoặc phụ huynh dùng gạc ướt để làm sạch vết thương, sử dụng thuốc kháng histamin toàn thân,…

Thuốc kháng khuẩn không nên được ứng dụng trừ lúc các tổn thương bị nhiễm trùng; nhiễm trùng do vi trùng phải được điều trị bằng kháng sinh.

Với trẻ từ 12 tuổi trở lên, việc điều trị bằng thuốc valacyclovir hoặc famciclovir. Với bệnh nhân suy giảm miễn nhiễm hoặc người dân có diễn tiến nặng, thầy thuốc có thể cho dùng đường tĩnh mạch acyclovir.

Thuốc điều trị

Người bệnh thủy đậu thường được điều trị bằng thuốc kháng vi rút, thuốc giảm đau, thuốc hạ sốt, các vitamin,…

Xem Thêm : "Đại Học Sư Phạm" trong Tiếng Anh là gì: Định Nghĩa, Ví Dụ Anh Việt

Thuốc điều trị như valacyclovir, famciclovir hoặc acyclovir dùng cho những người bệnh có nguy cơ mắc bệnh từ trung bình đến nặng.

Cụ thể, với thuốc dùng điều trị bệnh thủy đậu là famciclovir 500mg, mỗi ngày 3 lần. Hoặc thuốc valacyclovir 1g, mỗi ngày 3 lần 3 lần mỗi ngày cho những người lớn.

Thuốc acyclovir là một lựa chọn thứ yếu vì khả năng sinh khả dụng qua đường uống thấp, nhưng nó có thể sử dụng được ở liều 20mg/kg, với 4 lần/ngày và có thể sử dụng trong 5 ngày cho trẻ em từ 2 tuổi và ≤ 40kg.

Liều cho trẻ em nặng trên 40kg là 800mg 4 lần mỗi ngày trong 5 ngày. Trẻ vị thành niên và người lớn có thể uống acyclovir uống với liều 800mg 5 lần/ngày.

Trẻ em trên 1 tuổi bị suy giảm miễn nhiễm cũng nên dùng acyclovir 20mg/kg, mỗi 8 giờ qua đường tĩnh mạch. Người lớn suy giảm miễn nhiễm cần được điều trị với acyclovir 10 đến 12 mg/kg đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ.

Với thai phụ đối diện nguy cơ cao biến chứng thủy đậu, có thể uống acyclovir hoặc valacyclovir. Thuốc acyclovir tiêm tĩnh mạch được lời khuyên cho bệnh thủy đậu nghiêm trọng ở thai phụ.

Ngoài ra, người bệnh được uống thuốc hạ sốt có hoạt chất paracetamol, thuốc an thần chống co giật gardenal, seduxen, canxi bromua 3%,… thuốc chống ngứa bằng các thuốc kháng histamin như dimedrol 1%… Nếu người bệnh bị bội nhiễm sẽ được sử dụng kháng sinh thích hợp. Người bệnh có thể được lời khuyên tiêm thuốc chủng ngừa bệnh zona (Shingrix). Thuốc này được chấp thuận và khuyên dùng cho những người dân từ 50 tuổi trở lên.

Điều trị tận nhà

Khi điều trị tận nhà, người bệnh tuân thủ điều trị của Khi có sốt cao, người bệnh uống thuốc hạ sốt, vitamin nhóm B, C,… Phụ huynh có thể chấm dung dịch xanh methylen hoặc thuốc tím 1/4000 vào các nốt loét. Thông thường, bệnh thủy đậu của trẻ em, và trẻ dễ dàng vượt qua. Trong quá trình điều trị tận nhà, người bệnh cần dự phòng và phát hiện sớm biến chứng để nhập viện kịp thời.

Những lưu ý khi điều trị thuỷ đậu

Việc điều trị thủy đậu tại bệnh viện hay tận nhà cần tuân thủ lời dặn thầy thuốc. Ngoài việc sử dụng thuốc điều trị đúng phác đồ, còn cần phải quyết sách ngủ nghỉ, ăn uống thanh đạm để tránh biến chứng, để lại sẹo xấu,…

Quyết sách sinh hoạt

Bệnh nhân mắc thủy đậu cần có quyết sách sinh hoạt và vệ sinh thân thể như sau:

  • Tắm thường xuyên, giữ vệ sinh quần áo lót cũng như vệ sinh tay.
  • Cắt móng tay thường xuyên để ngăn ngừa nhiễm khuẩn thứ phát.
  • Dùng nước muối sinh lý để vệ sinh răng mồm, vệ sinh tai mũi họng, luôn giữ cho da khô sạch, không để trẻ gãi gây vỡ mụn nước.
  • Mặc quần áo mềm sạch để các mụn nước không khiến nhiễm trùng, ngứa ngáy cho trẻ.
  • Người bệnh thủy đậu cần ăn thức ăn lỏng như: Cháo, nui, trái cây,…
  • Tại khu vực phòng bệnh tận nhà phải thoáng khí, tránh gió lùa.
  • Người bệnh không nên trở lại trường học hoặc thao tác cho đến lúc những tổn thương cuối cùng đã đóng vảy.

Dinh dưỡng hàng ngày

Nếu kiêng khem, ăn uống đúng cách thì chỉ 5 ngày sau lúc xuất hiện các mụn nước sẽ vỡ ra, đóng vảy và bong hết. Do đó, dinh dưỡng cho những người bệnh thủy đậu rất quan trọng.

Thực phẩm nên ăn: Người bệnh ăn thức ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng, thức ăn lỏng, dễ tiêu hóa như: cháo đậu xanh, cháo gạo lứt, nui, măng tây, trứng, chuối, đậu đỏ, đậu xanh, đậu đen, khoai tây, cà rốt, củ cải trắng, bí đao, rau nhân tình ngót, rau sam, rau má, mướp đắng, rau dền, cải thảo,… Song song, người tăng cường các vitamin C để tăng sức khỏe, chống nhiễm trùng, đẩy nhanh quá trình sản sinh collagen, phòng ngừa sẹo lõm như: Chanh, cam, bơ, dâu tây, kiwi, lê, dưa hấu, dưa leo, cà chua,…

Thực phẩm không nên ăn: Người bệnh thủy đậu nên tránh các thức ăn nhiều dầu, mỡ, thức ăn nóng như: gừng, hành, tỏi, hành tây, tỏi tây, ớt, hạt tiêu, thìa là, cà ri, mù tạt, rau mùi, trái vải, xoài chín. Hoặc các loại thịt quá nhiều đạm như thịt dê, thịt gà, ngỗng, lươn, tôm, cua, sò, ốc,…

  • Xem thêm: Tổng hợp những căn bệnh về virus và kí sinh trùng

Các giải pháp phòng tránh bệnh thuỷ đậu

phong ngua benh thuy dau
Tiêm vắc xin để ngừa thủy đậu

Cách phòng bệnh thủy đậu hiệu quả nhất là tiêm vắc xin. Tính từ lúc năm 1970, khi nhà khoa học Nhật Bản đã tìm ra được vắc xin thủy đậu thì bệnh đã được đẩy lùi rõ rệt. Các Chuyên Viên ước tính 98% trường hợp tránh khỏi thủy đậu là nhờ vắc xin phòng bệnh quá hiệu quả. Hiện nay vắc xin ngừa thủy đậu được “tích hợp” chung với vắc xin ngừa sởi, quai bị

Mũi 1: Tiêm khi trẻ trên 1 tuổi. Mũi 2: Trẻ từ một – 13 tuổi: Tiêm cách mũi 1 tối thiểu 3 tháng. Trẻ 13 tuổi trở lên: Tiêm cách mũi 1 ít nhất 1 tháng. Khi xúc tiếp với những người đang mắc bệnh thủy đậu mà bản thân chưa tiêm ngừa vaccine thủy đậu, cần tiêm chủng trong 3 ngày sau đó.

Trường hợp nếu người bệnh đã mắc thủy đậu và được trung tâm Xét nghiệm chẩn đoán khẳng định là bị bệnh thủy đậu thì không cần tiêm vắc xin bệnh thủy đậu nữa.

Trên đây là một số thông tin tổng quản về bệnh thủy đậu, hy vọng nó giúp ích được cho bạn. Hãy dữ thế chủ động phòng ngừa và đẩy lùi thủy đậu ngay từ hôm nay.

You May Also Like

About the Author: v1000

tỷ lệ kèo trực tuyến manclub 789club