Hoàng Tuấn Công
○ “thượng đẳng sợ kẻ bất đẳng (Thượng đẳng là người bậc trên, bất đẳng là ngỗ ngược) Ý nói: Người cấp trên sợ những kẻ ngỗ ngược, liều lĩnh”.
Thực ra, “thượng đẳng” là người thuộc từng lớp phong phú, quyền thế; “bất đẳng” là người không hề có vai vế gì, không thuộc quý phái nào, tức thị thành phần nghèo khó trong xã hội nói chung. Vì là “bất đẳng” nên không hề có gì để mất, hay làm điều liều lĩnh, không nên biết đến đạo lí, tôn ti trật tự (như Bá Kiến phải sợ Chí Phèo). Câu đồng nghĩa: Vua thua thằng liều; Sợ kẻ liều thân, không sợ người ỷ thế; Thứ nhất sợ kẻ hero, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân. Tục ngữ Hán: “Quang quẻ cước bất phạ xuyên hài đích – 光腳不怕穿鞋的 – Chân đất không sợ chân giày”. Mười năm tiếp theo, trong Từ vị từ và ngữ Việt Nam, GS Nguyễn Lân lại phân tích và lý giải: “Thượng đẳng sợ kẻ bất đẳng:Ý nói người cấp trên mà không ra gì, thì phải sợ cả kẻ tầm thường: Vì lão ta ăn hối lộ nên thượng đẳng sợ kẻ bất đẳng”, cách phân tích và lý giải này càng sai thêm.
○ “ti hí mắt lươn Tả người mắt không được mở to”.
Không đúng. “Mắt không được mở to”, khác với mắt nhỏ, ti hí như mắt lươn. Mặt kia, phép xem tướng của dân gian nhận định rằng, người ti hí mắt lươn là tướng trộm cắp, đĩ điếm: “Những người dân ti hí mắt lươn, Trai thì trộm cắp, gái buôn ông chồng người”, chứ không phải thuần tuý tả người mắt nhỏ, càng không phải “tả người mắt không được mở to”.
○ “tiếc thay một đoá trà mi, con ong đã tỏ lối đi lối về Nói một người đàn bà đẹp đã lọt vào tay một kẻ tầm thường”.
Hai câu thơ trên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, không biết địa thế căn cứ vào đâu mà GS Nguyễn Lân xếp vào thành ngữ, tục ngữ?
○ “tiến thoái lưỡng nan (Nghĩa đen: Tiến và lùi hai tuyến đường cùng khó) Nói sự do dự trước một sự việc không biết có nên tiến hành hay là không”.
Đấy là một câu không khó, GS Nguyễn Lân đã dịch và hiểu đúng “nghĩa đen”, vậy mà vẫn phân tích và lý giải sai ý nghĩa thành ngữ. Nghĩa mà GS Nguyễn Lân giảng đó là từ “lưỡng lự” 兩慮, Từ điển Vietlex giảng như sau: “lưỡng lự 兩慮 đg. ở trong trạng thái còn đang suy tính xem nên hay là không nên, không biết quyết định ra làm sao cho đúng: “Tôi bỗng đâm ra lưỡng lự không biết đối xử với con chó này ra làm sao, bỏ nó lại, hay là mang nó đi?” (Kim Lân). Đn: do dự, đắn đo, phân vân”.
Còn “Tiến thoái lưỡng nan” 進退兩難, tức là đã tiến hành công việc rồi, nhưng ở thế thất vọng, tiếp tục làm (tiến) cũng khó, mà tháo lui (thoái) cũng khó. Trong những lúc “do dự trước một sự việc không biết có nên tiến hành hay là không”,là công việc chưa tiến hành, vẫn đang còn rất có thể tháo lui được. Hán điển (zidic.net): “Tiến thoái lưỡng nan: Tiến về phía trước cũng khó, mà lui về phía sau cũng khó. Tưởng tượng rơi vào yếu tố hoàn cảnh khốn khổ, thất vọng, tựa như vậy cưỡi hổ”. (nguyên văn: “進退两難 jìntuì-liǎngnán [up a gum tree] 前進也難, 後退也難. 形容陷于困境和僵局, 騎虎難下-tiến thoái lưỡng nan:Tiền tiến dã nan, hậu tiến dã nan. Tưởng tượng hãm vu khốn cảnh hoà cương cục, kỵ hổ nan hạ). Tức thị: Bách khoa (baike.baidu) phân tích và lý giải như sau: “Tiến thoái lưỡng nan: Tiến về phía trước và lui về phía sau đều khó, ví tình cảnh không hề có cách nào giải quyết và xử lý được, vì khó hành vi, yếu tố hoàn cảnh rất khốn khổ”. (nguyên văn: “進退兩難: 前進和後退都難, 比喻事情無法決定, 因而以難行動, 外境困難-Tiến thoái lưỡng nan: Tiền tiến hoà hậu tiến đô nan, tỉ dụ sự tình vô pháp quyết định, nhân nhi dĩ nan hành vi, ngoại cảnh khốn nạn”).
○ “tiếng ong tiếng ve Chỉ những lời chê trách giễu cợt xôn xao về hành vi, cử chỉ của người nào”.
Đúng ra là Lời ong, tiếng ve,hoặc Điều ong tiếng ve chứ không phải “Tiếng ong, tiếng ve”. Dân gian thường chú trọng vần vè, đăng đối, tạo hiệu suất cao cho cách nói, không phải nôm na thế nào thì cũng xong, chính vì vậy không nên tự ý thay đổi.
○ “tím như quả người tình quân Tức là: Có màu sắc tím lắm. Thường dùng để làm tả mặt một người đương hậm hực”.
Không đúng. “Màu tím lắm” là màu thế nào? Màu tím của quả người tình quân là màu tím bầm, tựa như màu máu tụ lại. Thế nên, những vết thương ứng dụng bị sưng tấy, thâm lại, cũng thường được ví thâm tím như quả người tình quân. Còn khuân mặt khó chịu (chứ không phải “hậm hực”) cũng hay được ví với quả người tình quân: Giận tím mặt, hoặc, Giận mặt tím như quả người tình quân. Có ai nói là “Bực tím mặt” đâu!
○ “tốt giống tốt mạ, tốt mạ, tốt lúa Nói sự quan trọng phải chọn giống thóc tốt mà gieo thì mới có thể có năng suất cao. Nói rộng ra là có nguyên nhân tốt thì thành phẩm mới tốt”.
Lý giải không được. Câu tục ngữ này không chỉ có nói đến việc vai trò của việc “chọn giống thóc tốt”nói chung, mà nhấn mạnh vấn đề sự quan trọng phải thâm canh mạ: giống tốt, thì mạ sẽ tốt; mạ có tốt, thì lúa mới tốt. Mạ thâm canh, có vừa đủ chất đủ dinh dưỡng, đanh dảnh, cứng cây; khi đem cấy, lúa sẽ nhanh bén rễ hồi xanh, đủ ĐK chống chọi với thời tiết bất thuận (giá rét vụ xuân và nắng nóng ở vụ mùa) sinh trưởng nhanh, kháng sâu bệnh. Trái lại, nếu mạ thiếu đủ dinh dưỡng, dảnh mạ bị lướt, ốm yếu; khi đem cấy dễ bị chết rét, hoặc chết do nắng nóng hoặc còi cọc, sâu bệnh dễ xâm nhập gây hại. Thế nên tục ngữ Việt còn tồn tại những câu nhấn mạnh vấn đề vai trò của thâm canh ngay ở thời đoạn mạ như: “Thưa mạ tốt lúa”,“Nhất ruộng, nhì mạ, thứ ba chuyên cần”. Tục ngữ Mường: “Muốn ăn cơm chăm mạ, muốn ăn cá chăm ao” (Moành ăn cơm chăm má, moành ăn cà chăm đấm côống ao)”; “Mạ vãi thưa, ruộng cấy dày” (Má quải sưa, trưa cần ráy)”. Tục ngữ Tày: “Khôn thì chăm sóc cây mạ, dại thì chăm sóc ruộng” (Quai chướng chả, vả chướng nà)”; “Ruộng tốt là vì mạ tốt, con mũm mĩm chóng lớn là vì sữa mẹ (Nà đây nhoòng chả lủc mả nhoòng nồm)”. Tục ngữ Hán: “Mẹ khoẻ, con khoẻ; mạ tốt, lúa tốt – Nương hảo, nám hảo, ương hảo, đạo hảo – 娘好, 囡好, 秧好, 稻好”.
Sau cùng, hình thức đúng của câu tục ngữ là “Tốt giống, tốt má...” chứ không phải “Tốt giống, tốt mạ…”. “Má” (tiếng Việt cổ) đó là mạ, nhưng chỉ khi viết đúng theo cái cách gieo vần của dân gian “Tốt giống, tốt má, tốt mạ tốt lúa”, mới thấy hết được sự giàu đẹp của tiếng Việt.
○ “trai hero, gái thuyền quyên (Thuyền quyên là người thiếu nữ xinh đẹp) Nói những nam nữ thanh niên xứng danh với nhau”.
Đúng ra là: trai tài gái sắc gặp nhau, đẹp đôi phải lứa, chứ không phải “xứng danh với nhau”. Từ vị sao giải nghĩa quá nôm na vậy?
○ “trạng chết trẫm cũng chầu trời (Nói lại một truyền thuyết về Trạng Quỳnh; trẫm là vua tự xưng) Ý nói: Làm hại người ta thì tôi cũng sẽ khổ”.
Lại thêm một trường hợp râu ông nọ cắm cằm bà kia. Nếu không hề có chú thích rõ ràng của soạn giả “trẫm là vua tự xưng”, người ta sẽ nghĩ đấy là lỗi đánh máy, “chúa” đánh nhầm thành “trẫm”. Câu tục ngữ này đúng đắn phải là “Trạng chết Chúa cũng chầu trời”, chứ không phải “trẫm cũng chầu trời”. Có “trẫm” nào mà lại tự mình nói gở như vậy? Đấy là cái sai thường thấy của GS Nguyễn Lân mỗi một khi phân tích và lý giải thành ngữ, tục ngữ liên quan đến điển cố điển tích. Tức thị soạn giả không kê cứu điển tích, mà chỉ nhắc sơ qua một câu, không đầu không đũa. Chính vì thế, nhiều trường hợp soạn giả chỉ nhớ mang máng, rồi chép ra theo trí tưởng.
Tục ngữ “Trạng chết Chúa cũng chầu trời”, vốn bắt nguồn từ câu chuyệndân gian cùng tên như sau: Sau vụ bị Trạng Quỳnh chơi xỏ, cho ăn canh rau cải tưới bằng nước giải, cá rô nuôi bằng cứt của Trạng, nhà Chúa đâm ra thâm thù. Thế nên, Chúa mới vờ cho mời Quỳnh vào phủ hầu yến, để đánh thuốc độc. Quỳnh đoán biết lành ít dữ nhiều, nên lúc đi mới dặn vợ con: “Ta có mệnh hệ nào, thì không được phát tang ngay, cứ để ta vào võng, cắt hai đứa quạt hầu, rồi gọi nhà trò về hát, đợi lúc nào phủ Chúa phát tang thì ở ngoài hãy phát tang”. Dặn xong, lên võng đi. […] Quỳnh biết Chúa thù về vụ canh cải hôm nọ, nhưng không ăn không được. Quỳnh vừa nếm một miếng, thì Chúa hỏi: “Lúc nào Quỳnh chết?” Quỳnh thưa: “Lúc nào Chúa chầu trời thì Quỳnh cũng chết”. Ăn xong, Quỳnh thấy trong người khang khác, cáo xin về. Vừa về đến nhà thì tắt hơi. Vợ con cứ theo lời Quỳnh dặn mà làm. Chúa sai người dò xem Quỳnh có việc gì không, thấy Quỳnh đương nằm võng nghe nhà trò hát, mà người thân thì đi lại vui vẻ như thường, bèn về tâu với Chúa. Chúa liền đòi đầu bếp lên hỏi xem đánh thuốc thế nào mà Quỳnh không việc gì. Chúa ăn thử, được một chốc thì lăn ra chết. Nhà Quỳnh nghe thấy trong dinh Chúa phát tang, thì ở trong nhà cũng phát tang. Người đời về sau có câu: “Trạng chết chúa cũng chầu trời, Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn”,nghĩa bóng ý nói: Những quan hệ thường có sự ràng buộc, kẻ này gặp nguy ngập thì kẻ khác cũng chẳng được yên; Hại nhân nhân hại.
○ “trăm tội đổ đầu nhà oản(Thời trước người dân phải thứu tự đóng oản đem ra cúng ở đình, để bọn cường hào chia nhau hưởng)”.
GS Nguyễn Lân không hiểu nhiều “nhà oản” là gì nên mới phỏng đoán như vậy. Thời trước, những đám làm chay cầu siêu, cầu phúc lúc nào cũng ngăn một buồng riêng, kín kẽ, trong đó để sẵn đồ lễ, phẩm vật…do một hoặc hai người phục trách, gọi là “nhà oản”. Chỗ làm “nhà oản” còn gọi là “buồng chay”. “Chay” đó là chữ “trai” 齋, tức thị phòng (như “thư trai” 書齋 – phòng riêng xem sách). Cái chái ngoài, cái nhà riêng để ở trong lúc sắp tế lễ cũng gọi là trai 齋 (chữ trai 齋, còn Có nghĩa là “chay tịnh”). Khi cầu cúng không thấy thiêng liêng, hoặc hiện tượng kỳ lạ “hoá bầu hương” (bát hương bốc cháy), người ta đổ lỗi cho “nhà oản” làm điều không tốt như thiếu thật sạch sẽ, xà xẻo đồ lễ, v.v. trọn vẹn không phải“Thời trước người dân phải thứu tự đóng oản đem ra cúng ở đình, để bọn cường hào chia nhau hưởng”như cách phân tích và lý giải phỏng đoán của GS Nguyễn Lân.