Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân

1. Những giá trị vững bền trong thuyết lí của C.Mác về sứ mệnh lịch sử vẻ vang toàn thế giới của giai cấp công nhân

a. Nhận thức khoa học về giai cấp công nhân tân tiến

Trước C.Mác, do sự quy định của tham gia lịch sử vẻ vang và phương pháp tư duy, trong các văn phẩm của CNXH không tưởng, chưa thấy hình bóng của giai cấp công nhân (GCCN), có chăng chỉ là những “phác thảo” tương đối phiến diện về những người dân vô sản như thể một phòng ban của đám đông quần chúng nghèo khổ, cần được cứu vớt bởi các vĩ nhân tài giỏi và nhân ái. Clode Henry Xanhximon (1760 – 1825) còn nhập cả vô sản và tư sản thành một “giai cấp của những nhà công nghiệp”! Hiển nhiên, theo họ, giai cấp vô sản “nghèo đói và đáng thương” ấy chưa thể tự phóng thích và chưa thể có sứ mệnh phóng thích nhân loại.

Chỉ đến C.Mác, từ thực tế của Cách mệnh công nghiệp lần thứ nhất (bắt nguồn từ thời điểm giữa thế kỷ XVIII) và với quan niệm duy vật lịch sử vẻ vang, C.Mác đã nhận được thấy GCCN “là sản phẩm của họ nền đại công nghiệp”(1) và là chủ thể của quá trình sinh sản vật chất tân tiến. Đại công nghiệp hay quá trình công nghiệp hóa, nhờ ứng dụng máy móc vào sinh sản và dịch vụ, đã làm chuyển đổi thâm thúy tồn tại xã hội.

Từ quá trình này, một phương thức lao động mới dần định hình, đó là phương thức lao động công nghiệp với những đặc điểm: sinh sản bằng máy móc, lao động có tính chất xã hội hóa, năng suất lao động cao và tạo ra những tiền đề cho xã hội mới, là yếu tố hàng đầu, tác động trực tiếp đến giai cấp công nhân. Do gắn liền với phương thức lao động này, giai cấp công nhân đã chiếm lĩnh được những phẩm chất như tính tổ chức, kỷ luật lao động, ý thức hợp tác, tâm lý lao động công nghiệp… Những đặc điểm ấy lại đây chính là những phẩm chất cấp thiết cho một giai cấp cách mệnh và có năng lực lãnh đạo cách mệnh.

Từ lịch sử vẻ vang phát triển của CNTB, giai cấp công nhân còn là một sản phẩm xã hội của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã hội có “tham gia tồn tại dựa trên cơ sở cơ chế làm thuê”. C.Mác nhận thấy: “Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê tân tiến, vì mất các tư liệu sinh sản của họ, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống”(2). “Họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”(3).

Họ là giai cấp bị giai cấp tư sản bóc lột bởi phương thức bóc lột thặng dư giá trị. Thặng dư giá trị, về thực chất là lao động không được trả công của người công nhân. Sức lao động của GCCN trở thành sản phẩm & hàng hóa là tham gia cần cho quá trình sinh sản thặng dư giá trị của giai cấp tư sản. Sở hữu tư bản tạo ra độc quyền phân chia thặng dư giá trị. Vì mục tiêu tăng thêm lợi nhuận, giai cấp tư sản có nhu cầu ngày càng tăng về sức lao động của giai cấp công nhân. “Tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, cái sở hữu chỉ có thể tăng thêm với tham gia là phải sinh sản ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột lao động làm thuê đó. Trong hình thái ngày nay của nó, sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực: tư bản và lao động”(4).

C.Mác là người trước hết chỉ ra quan hệ lợi ích phức tạp giữa công nhân và tư bản. Hai bên vừa đối lập nhau về lợi ích cơ bản, vừa phụ thuộc nhau về lợi ích hàng ngày trong thị trường sức lao động. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc cơ bản của thặng dư giá trị và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc lột được ngày càng nhiều thặng dư giá trị. “Trong xã hội ấy, những người dân lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động”(5). Đây là xích mích cơ bản về lợi ích giữa GCCN và giai cấp tư sản. Nó không thể điều hòa và chỉ có thể được giải quyết và xử lý bằng việc xóa sổ cơ chế bóc lột thặng dư giá trị trên cơ sở xác lập một quan hệ sinh sản mang tính chất công hữu những tư liệu sinh sản chủ yếu. Chính lực lượng sinh sản mang tính chất xã hội hóa đã chỉ ra giải pháp giải quyết và xử lý ấy. Mặt khác, bán tốt sức lao động cũng là tiền đề cho việc đảm bảo đời sống của công nhân. Hai bên đều phụ thuộc vào quy luật cung – cầu của thị trường sản phẩm & hàng hóa sức lao động. Tác động qua lại về lợi ích giữa hai giai cấp này đã tạo nên tính chất phức tạp của đấu tranh giai cấp tân tiến.

Trong cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử vẻ vang, sự thống trị của giai cấp tư sản, nhất là của phòng ban tư sản đại công nghiệp, được chủ nghĩa Mác xem như một tham gia ban sơ cho việc phát triển GCCN: “Nói chung, sự phát triển của giai cấp vô sản công nghiệp được quy định bởi sự phát triển của giai cấp tư sản công nghiệp. Chỉ có dưới sự thống trị của giai cấp này… thì bản thân giai cấp vô sản công nghiệp mới có thể tạo ra những tư liệu sinh sản tân tiến, tức là những thứ đều trở thành những phương tiện để thực hiện sự nghiệp phóng thích cách mệnh của nó”(6).

Chủ trương chính trị, quốc gia pháp quyền tư sản đã và đang tác động hai mặt đến công nhân. Nó hình thành cho công nhân – với tư cách là công dân, thói quen tuân thủ pháp luật hiện hành, Từ đó các phản ứng ban sơ của giai cấp này với cơ chế tư sản, thường là với trình độ của chủ nghĩa công liên. Công nhân với tư cách là giai cấp bị trị, đã và đang học được nhiều giải pháp đấu tranh hợp pháp từ nền dân chủ tư sản, thông qua đó tích lũy được nhiều kinh nghiệm đấu tranh chính trị. Tính chất chuyên chế của cơ chế chính trị tư sản cũng xúc tiến GCCN cùng với nhân dân đấu tranh chính trị chống áp bức, bất công.

C.Mác nhận định rằng: con người là sản phẩm của hoàn cảnh ở chừng mực tạo ra và tác động vào hoàn cảnh ấy. GCCN tân tiến là sản phẩm của phương thức sinh sản công nghiệp và là chủ thể của phương thức sinh sản tân tiến và ngày càng xã hội hóa ấy. Đó là những giá trị khoa học ngày càng sáng rõ theo thời kì.

b. Phát hiện và luận chứng về sứ mệnh lịch sử vẻ vang toàn thế giới của giai cấp công nhân

C.Mác có công đầu trong việc phát hiện và luận giải tính khách quan và tự giác về sứ mệnh lịch sử vẻ vang của GCCN tân tiến. Đó là giai cấp có năng lực tự phóng thích và sẽ phóng thích nhân loại thoát khỏi ách áp bức bóc lột cuối cùng của lịch sử vẻ vang: cơ chế bóc lột thặng dư giá trị của phương thức sinh sản TBCN.

Về tính chất thế tất của sứ mệnh lịch sử vẻ vang GCCN, C.Mác bắt nguồn từ một nguyên tắc tổng thể rằng, xã hội nào thì cũng tồn tại và phát triển trên cơ sở sinh sản và tiêu thụ tài sản vật chất. Sinh sản tân tiến về cơ bản là bằng phương thức công nghiệp và giai cấp công nhân là chủ thể tiêu biểu của quá trình sinh sản đó. Vì thế, họ là giai cấp quyết định sự phát triển của xã hội tân tiến. Sứ mệnh lịch sử vẻ vang của giai cấp công nhân cũng bắt nguồn từ đây.

Tính chất xã hội hóa của sinh sản tân tiến làm xuất hiện những tiền đề vật chất, nhu cầu phát triển và gợi ý những giải pháp để giải quyết và xử lý các vấn đề của xã hội tư bản. Xã hội hóa sinh sản đã xúc tiến sự vận động của xích mích cơ bản trong tâm phương thức sinh sản TBCN. Xích mích cơ bản đó là xung đột giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sinh sản với tính chất tư nhân TBCN về tư liệu sinh sản. Công hữu những tư liệu sinh sản chủ yếu của xã hội là yêu cầu khách quan và được quá trình sinh sản tân tiến vạch ra. “Cái tính chất của đại công nghiệp, trong xã hội hiện thời, là đẻ ra mọi sự nghèo đói và mọi cuộc khủng hoảng rủi ro thương nghiệp, thì đến một cơ chế xã hội khác, chính tính chất ấy lại trở thành tính chất thủ tiêu sự nghèo khổ đó và những sự biến động đem lại tai họa đó”(7). C.Mác nhận định: “Như vậy, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sinh sản và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã biết thành phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người dân đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là thế tất như nhau”(8).

Nội dung của sứ mệnh lịch sử vẻ vang GCCN là một quá trình cách mệnh toàn diện để xây dựng một hình thái tài chính xã hội mới trên các phương diện tài chính, chính trị, xã hội, văn hóa truyền thống, tư tưởng. Nó làm xuất hiện hình thái tài chính xã hội cộng sản chủ nghĩa mà thời đoạn đầu là CNHX. Lần trước hết trong lịch sử vẻ vang, có “một cuộc cách mệnh của đại phần nhiều mưu lợi ích cho tuyệt đại phần nhiều”, nhờ việc hướng tới xây dựng một xã hội trên cơ sở công hữu những tư liệu sinh sản chủ yếu.

Để làm tròn sứ mệnh ấy, GCCN cần phải được rèn luyện và phát triển tự giác mà nhân tố hàng đầu là Đảng Cộng sản. Quy luật hình thành Đảng là việc phối hợp giữa CNXH khoa học với trào lưu công nhân – kết quả xã hội của quá trình công nghiệp hóa và đấu tranh giai cấp tân tiến. Tính chất tiền phong trong thực tiễn và lý luận xác định vị thế lãnh đạo của Đảng: “Về mặt thực tiễn, những người dân cộng sản là phòng ban kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả những nước, là phòng ban xoành xoạch xúc tiến trào lưu tiến lên. Về mặt lý luận, họ hơn phòng ban còn sót lại của giai cấp vô sản tại phần là họ nắm vững những tham gia, tiến trình và kết quả chung của trào lưu vô sản”(9).

Mục tiêu của Đảng là thực hiện nội dung chính trị của sứ mệnh lịch sử vẻ vang GCCN: “Mục tiêu trước mắt của những người dân cộng sản cũng là mục tiêu trước mắt của tất cả những đảng vô sản khác: tổ chức những người dân vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy tổ chức chính quyền”(10).

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng về chiến lược, sách lược, tổ chức và tư tưởng là tham gia đảm bảo cho GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang toàn thế giới. Nắm được quyền lực chính trị để lãnh đạo thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang xây dựng CNXH; không ngừng nghỉ nâng cao thực chất GCCN và trở thành đại biểu chân chính cho lợi ích của quốc gia – dân tộc bản địa… là những quy luật phát triển của Đảng.

Trên đây là tổng thể những giá trị khoa học tiêu biểu của C.Mác về sứ mệnh lịch sử vẻ vang của GCCN. Thực tiễn của trào lưu công nhân và cách mệnh XHCN gần hai thế kỷ qua đã xác nhận tính đúng đắn và coi đó là những nguyên tắc.

2. Một số luận điều cần được bổ sung, phát triển cho quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang của giai cấp công nhân Việt Nam

C.Mác bàn đến sứ mệnh lịch sử vẻ vang của GCCN từ toàn cảnh tiêu biểu của những nước tư bản phát triển cao đương thời như Anh, Mỹ, Pháp, Đức ở thời khắc của cách mệnh công nghiệp lần thứ nhất… còn Việt Nam bỏ qua thời đoạn phát triển của CNTB, hiện nay chưa công nghiệp hóa xong và đang bước dần sang Cách mệnh công nghiệp lần thứ tư. C.Mác nghiên cứu về sứ mệnh lịch sử vẻ vang toàn thế giới của GCCN và yêu cầu hậu thế khi vận dụng thuyết lí của mình vào tham gia cụ thể của mỗi quốc gia phải ghi nhận tại vị trên “mảnh đất nền hiện thực” của mỗi nước và bổ sung, phát triển những nguyên tắc “đến từng rõ ràng”…

Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh là người trước hết đề xuất bổ sung cho “chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử vẻ vang của nó, củng cố nó bằng dân tộc bản địa học phương Đông…”(11). Người khẳng định, cùng với động lực đấu tranh giai cấp thì, “Chủ nghĩa dân tộc bản địa là động lực lớn của giang san”(12) và phải gắn sứ mệnh của giai cấp với lợi ích của dân tộc bản địa. Người đã phát hiện thêm hai điều mà C.Mác chưa nói tới: “Chủ nghĩa cộng sản xâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn với châu Âu”(13) vì nó có nhiều tiền đề từ xã hội cổ truyền, và chưa phải là việc phát triển của xã hội sinh sản mà là “Sự tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đã sẵn sàng chuẩn bị sẵn mảnh đất nền rồi. Chủ nghĩa cộng sản chỉ từ phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc phóng thích mà thôi”(14). Chính từ những ý kiến mới mẻ ấy, Hồ Chí Minh đã giải quyết và xử lý thành công nhiệm vụ phóng thích dân tộc bản địa ở Việt Nam và đã bổ sung, phát triển lý luận về cách mệnh XHCN. Đó cũng cũng đây chính là phương pháp luận để tất cả chúng ta vận dụng và phát triển lý luận về sứ mệnh lịch sử vẻ vang. Có nhiều điều cần được cụ thể hóa, bổ sung và phát triển khi vận dụng lý luận này, nhưng có thể chỉ ra một số điểm tiêu biểu như sau:

a. Xây dựng GCCN Việt Nam hiện nay cần lưu ý tới quy luật phát triển của giai cấp này là sản phẩm và là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa. Hiển nhiên quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH của Việt Nam, phải gắn liền với quá trình tăng dần CNH, HĐH. Mặt khác, một vấn đề có tính quy luật là, sự phát triển của GCCN cũng là “sản phẩm” của đường lối, chính sách CNH, HĐH cho nên bất kỳ thiếu sót, sai trái nào về đường lối chiến lược cũng ảnh hưởng tác động thâm thúy đến việc phát triển của GCCN. Bài học kinh nghiệm kinh nghiệm mà Đại hội VI rút ra là: “Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự nhất trí, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi trái lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”(15).

Trong toàn cảnh của tài chính thị trường nhiều thành phần hiện nay, cần đặc biệt quan trọng lưu ý để kiểm soát và điều chỉnh hiện tượng kỳ lạ: “Lợi ích mà một phòng ban công nhân được hưởng chưa tương xứng với thành tựu của công cuộc đổi mới và sự đóng góp của chính họ”(16). Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay còn chỉ ra rằng, không chỉ do tác động của sở hữu tư nhân, quy luật bóc lột thặng dư giá trị mà cơ chế quản lý yếu kém và trình độ quản lý sinh sản, quản lý xã hội không ổn, cùng quan liêu, tham nhũng lại là nguyên nhân trực tiếp khiến lao động không được trả công xứng danh. Điều nghịch lý là những hiện tượng kỳ lạ này lại xuất hiện trong cơ chế coi công hữu là nền tảng và thỉnh thoảng ngay trong thành phần tài chính quốc gia. Nhận thức mới cần được bổ sung là, trong quá trình phát triển của nhân loại, để xóa sổ sở hữu tư nhân thì bên cạnh phát triển lực lượng sinh sản, xúc tiến phân công lao động xã hội, thì vai trò quản lý sinh sản và quản lý quốc gia XHCN với những quá trình xã hội cần được xem là nhân tố trực tiếp để né tránh và dần xóa sổ hiện tượng kỳ lạ bóc lột, bất công.

Những nhận thức mới về giải quyết và xử lý vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay. C.Mác nghiên cứu sở hữu tư nhân TBCN rất thâm thúy và nhận định thường thiên về các tóm lại về sự việc ngã ngũ vai trò lịch sử vẻ vang của nó, do không còn phù phù hợp với tính chất xã hội của lực lượng sinh sản và do tính chất bất công, phi nhân tính của nó. Thực tế và kết quả nghiên cứu của Việt Nam và nhiều nước khác, do được “đứng trên vai hai người khổng lồ” (lý luận của C.Mác và thực tiễn cải cách, đổi mới) nên nhận thức đã tiến xa hơn tại phần: thừa nhận tính thế tất, sự tồn tại lâu dài của sở hữu tư nhân cùng khả năng liên kết với những hình thức sở hữu khác và đóng góp của nó trong xây dựng CNXH. Tư duy mới có tính đột phá là thừa nhận và khuyến khích sự phát triển tài chính tư nhân, coi đó là phòng ban “có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam”.

Vấn đề bóc lột của sở hữu tư nhân đã được nhìn rộng hơn, sâu hơn, biện chứng hơn. Chẳng hạn, bị bóc lột cũng “được”, và đi bóc lột cũng “mất”! Người lao động “được” gì khi tham gia vào quá trình sinh sản tư bản? Với những công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân, họ có nghề nghiệp, kỹ năng lao động mới, thu nhập tăng hơn, được tiếp cận môi trường tự nhiên lao động tân tiến với phương thức lao động và quản lý mới… Quốc gia thu được thuế, tiếp cận với công nghệ mới, tài chính thị trường và sinh sản sản phẩm & hàng hóa tân tiến, qua này mà phát triển sinh sản và “làm bạn, là đối tác, là thành viên có trách nhiệm” với thế giới… Người sử dụng lao động cũng phải san sẻ bí quyết công nghệ, san sẻ thị trường, kinh nghiệm quản lý, chấp thuận sự nguy hiểm của đồng vốn khi góp vốn đầu tư v.v.. chứ không chỉ biết có lợi nhuận. Nguyên tắc hai bên, các bên cùng có lợi là một yêu cầu khách quan và đã diễn ra trên thực tế(17). Cũng như trong lịch sử vẻ vang công nghiệp hóa, hiện nay từng lớp doanh nhân – tư sản ở Việt Nam cũng sẽ có một vai trò tích cực cần được nhìn nhận, đó là góp phần công nhân hóa lực lượng lao động.

C.Mác phê phán giai cấp tư sản “ngày càng trở thành thừa”, là giai cấp ăn bám về tài chính và phản động về chính trị. Tuy vậy, vai trò của giai cấp tư sản trong quản lý sinh sản và quản lý xã hội thì rõ ràng ở thời C.Mác và Ph.Ăngghen không thể đã chiếm lĩnh được luận cứ thực tiễn đầy đủ như hiện nay. Tuy là những yếu tố thuộc về quan hệ sinh sản và kiến trúc thượng tằng, song thực tiễn tân tiến xác định rằng, những kiểm soát và điều chỉnh của CNTB tân tiến cũng góp phần tương trợ cho quá trình phát triển sinh sản và văn minh. Tuy đó là những giải pháp để duy trì cơ chế TBCN, nhưng cũng sẽ có những nhân tố hợp lý (như kinh nghiệm tổ chức, quản lý sinh sản, kinh nghiệm sử dụng động lực lợi ích vật chất…) cần được GCCN – với tư cách giai cấp lãnh đạo xã hội, thừa hưởng trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và hoàn thành sứ mệnh của mình.

b. Xây dựng Đảng của GCCN và của dân tộc bản địa

C.Mác tin tưởng ở sự phát triển mạnh mẽ, thế tất của chính đảng vô sản trong quá trình cách mệnh. C.Mác tin vào sự phát triển của tương đối nhiều Đảng thông qua đấu tranh giai cấp và đấu tranh tư tưởng trong nội bộ để giữ vững lập trường của một đảng chân chính của GCCN. C.Mác nhận định rằng: “Những người dân cộng sản… tuyệt nhiên không có một lợi ích nào khác tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”(18). Nhưng C.Mác chưa xuất hiện tham gia lịch sử vẻ vang để nghiên cứu về những không ổn, hạn chế của tương đối nhiều Đảng Cộng sản khi cầm quyền.

C.Mác quan niệm rằng: Những người dân cộng sản chỉ khác với những đảng vô sản khác… là, trong các cuộc đấu tranh của những người dân vô sản thuộc các dân tộc bản địa khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc bản địa và chung cho toàn thể giai cấp vô sản… Ý kiến ấy, trong tham gia phức tạp của chính trị thế giới hiện nay không được thực tiễn chứng minh. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đã đóng vai trò tốt với cách mệnh phóng thích dân tộc bản địa, cách mệnh XHCN và đang tiếp tục vai trò ấy trong toàn cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Nhưng thực tế hiện nay còn chỉ ra rằng “chủ nghĩa dân tộc bản địa còn là một một động lực lớn” cho việc nghiệp phóng thích. Một vấn đề có tính quy luật đang dần được làm sáng rõ là: Tất cả những Đảng Cộng sản cầm quyền và các đảng đang đấu tranh để cầm quyền đều phải trở thành dân tộc bản địa, không phải ở tại mức độ là “hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp” mà cần được xem là thực chất của Đảng! Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của Đảng là phải giải quyết và xử lý hài hòa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc bản địa. Thậm chí còn, hiện nay với một số đảng cầm quyền, không bảo vệ được chủ quyền, lợi ích của quốc gia dân tộc bản địa là đồng nghĩa với “tự sát” về chính trị.

C.Mác chưa xuất hiện tham gia để nói về suy thoái và khủng hoảng chính trị – tư tưởng và đạo đức của một Đảng Cộng sản cầm quyền. C.Mác cũng chưa lường trước được xung đột về ý kiến chính trị, dị đồng về tư tưởng, phân liệt về tổ chức giữa các Đảng, các nước XHCN là có thể diễn ra và gây hại cho việc kết đoàn quốc tế và sự phát triển lý luận về CNXH. C.Mác cũng chưa xuất hiện tham gia lịch sử vẻ vang để tận mắt chứng kiến sự biến dạng lý luận và tư tưởng trong một Đảng Cộng sản như trường hợp Trung Quốc với “Đại nhảy vọt” và “Đại cách mệnh văn hóa truyền thống vô sản”. Sự suy thoái và khủng hoảng ấy có thể làm biến dạng nền dân chủ XHCN, làm cho chính những người dân xây dựng CNXH cũng phạm phải các căn bệnh kiêu ngạo, chủ quan, duy ý chí, quan liêu và lạm dụng quyền lực, tham nhũng…

C.Mác không có tham gia thực tế để thấy rằng, thỉnh thoảng do cơ chế tổ chức và hoạt động, Đảng đã lựa chọn nhầm những nhân vật không tiêu biểu cho tất cả thực tiễn và lý luận, không đại biểu trung thành với chủ cho lợi ích giai cấp công nhân. Họ có thể tận dụng sự “xơ cứng” của cơ chế tập trung dân chủ trong bầu cử để làm biến dạng dân chủ trong đảng. Cơ chế làm tha hóa con người, con người làm tha hóa tổ chức và cơ chế là điều có thật! Tất cả những Tổng Bí thư và cán bộ lãnh đạo thượng hạng của những Đảng Cộng sản cầm quyền, đều do bầu cử mà ra, nhưng cũng từ cơ chế ấy đã đẻ ra các hiện tượng kỳ lạ như Gorbachop, Enxin là những kẻ đã phá vỡ Đảng và CNXH hiện thực!

Toàn cảnh mới của thế giới và đặc thù của Việt Nam trong xây dựng CNXH yên cầu tất cả chúng ta ngày càng phải “thâm canh” trên mảnh đất nền lý luận của chủ nghĩa Mác để vận dụng và phát triển nó.

________________________

(*) Nội dung bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài “Nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử vẻ vang của giai cấp công nhân trong lịch sử vẻ vang và thời đại ngày này; đề xuất bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong toàn cảnh mới” do PGS, TS Nguyễn Viết Thảo làm Chủ nhiệm. Đề tài thuộc Khóa học Khoa học và Công nghệ trọng tâm cấp quốc gia thời đoạn 2016 – 2020, “Nghiên cứu tổng kết, đề xuất bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin – cấu phần quan trọng của nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong toàn cảnh mới.”; mã số KX.02/16-20.

(1), (2), (3), (4), (5), (7), (8), (9), (10), (18) C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Thành Phố Hà Nội, 1995, t.4, tr.610, 596, 605, 616, 619, 466, 612-613, 469, 614-615, 614.

(6) Sđd, t.7, tr.29.

(11), (12), (13), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Thành Phố Hà Nội, 1995, t.1, tr.465, 466, 36, 28.

(15) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, dangcongsan.vn.

(16) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị TW 6, khóa X, Quyết nghị về Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ tăng dần công nghiệp hóa, tân tiến hóa, 2008.

(17) Xem thêm GS, TS Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên): Vấn đề sở hữu trong nền tài chính thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Thành Phố Hà Nội, 2010, tr.51, 87-88, 292…

PGS, TS Nguyễn An Ninh

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện chuyên nghành Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

You May Also Like

About the Author: v1000