Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) và lợi ích của việc quán chiếu ngũ uẩn

Ngũ uẩn nằm trong giáo lý nguyên thủy và có vai trò rất quan trọng so với người tu học Phật. Không chỉ người xuống tóc mà hàng Phật tử tại gia cũng phải làm rõ về ngũ uẩn để sở hữu một hành trang trên bước đường tu đạo cầu giải thoát. Bởi đây được xem là gốc của rất nhiều khổ đau. Vậy ngũ uẩn là gì? Tu tập quán chiếu để hiểu về ngũ uẩn sẽ mang lại lợi ích gì cho tất cả chúng ta?

Kính mời quý Phật tử cùng theo dõi nội dung bài viết ở đây qua sự san sớt của Thầy Thích Trúc Thái Minh.

Ngũ uẩn là gì?

Ngũ uẩn hay còn gọi là ngũ ấm. “Ngũ” gồm năm yếu tố: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; “uẩn” là sự việc tích tụ; “ấm” là che đậy, trùm phủ. Tựu chung lại, ngũ uẩn (ngũ ấm) là năm uẩn, trùm phủ thân tâm tất cả chúng ta, làm cho trí tuệ chân thật không hiển lòi ra được. Ngũ uẩn (ngũ ấm) không chỉ nói về thể xác mà còn gồm có phần ý thức của tất cả chúng ta. Vậy nên, thiếu một uẩn cũng không được mà phải đầy đủ năm uẩn mới hợp thành một chúng sinh. Cũng giống như nắm tay là vì 5 ngón tay cùng với bàn tay phối hợp mà thành, nếu xòe bàn tay ra thì không còn gọi là nắm tay nữa.

Ngũ uẩn gồm có những gì?

Ngũ uẩn gồm sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Trong số đó, sắc uẩn là thể xác, vật chất của tất cả chúng ta; còn thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn thuộc về nghành ý thức, tâm linh.

Ngũ uẩn gồm 5 uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Ngũ uẩn gồm 5 uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức

1. Sắc uẩn

Chữ “sắc” trong Phật giáo nói về vật chất, tức là nói về thể xác thịt của tất cả chúng ta, gọi là thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa hợp thành.

2. Thọ uẩn

Thọ uẩn là các cảm thọ mà ta thường gọi là cảm xúc, cảm giác. Cảm giác sung sướng thì gọi là thọ lạc; thống khổ gọi là thọ khổ; trung tính gọi là thọ xả, bất khổ bất lạc (không khổ không sướng). Như vậy, thọ uẩn của tất cả chúng ta chỉ có ba trạng thái: một là khổ, hai là lạc và ba là bất khổ bất lạc.

Ví như buổi sáng dậy thấy mặt trời rất đẹp, tất cả chúng ta vươn vai, hít thở thấy khoan khoái, đó là thọ lạc. Đến giữa trưa, tất cả chúng ta gặp phải chuyện bất như ý: bị ngã đau, đói rét, mất mát tài sản… đó là lúc thọ khổ xuất hiện. Buổi tối, tất cả chúng ta ăn cơm xong, không thấy vui cũng không thấy buồn gọi là xả thọ hay cảm thọ trung tính. Dù cảm giác, cảm xúc ra sao thì tất cả chúng ta cũng quy được về ba cảm thọ này.

3. Tưởng uẩn

Uẩn thứ ba là tưởng uẩn, tức là những tri giác, tư tưởng, suy nghĩ và nó chi phối gần như toàn bộ cuộc sống tâm linh của tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta nhớ gì, nghĩ gì, tưởng tượng điều gì đều thuộc về tưởng uẩn.

4. Hành uẩn

Hành là các sự vận hành nơi tiềm thức của tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta yêu thích, ghét bỏ, hờn giận, chán nản… là thuộc về hành uẩn. Hành uẩn kích thích tưởng uẩn để sinh ra tất cả suy nghĩ đáp ứng, phản ứng lại với những trần cảnh.

5. Thức uẩn

Đó là khả năng nhận mặt, phân biệt các giác quan hay sáu căn đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của tất cả chúng ta. Ví dụ, mắt có thể phân biệt các sắc màu như xanh, đỏ, tím, vàng, trắng, đen… hay nhận mặt cao, thấp. Tai có thể phân biệt được âm thanh rung động với tần số nào, đó gọi là nhĩ thức hay là nhận thức của tai. Tương tự so với mũi, lưỡi, thân thể và ý thức đều phải sở hữu khả năng nhận mặt, phân biệt được.

Vì sao nói ngũ uẩn là vô ngã?

Trong kinh Bát đại nhân giác – Điều giác ngộ thứ nhất, Đức Phật dạy: “Năm ấm là vô ngã”, tức là năm ấm hợp thành thân tâm này và không có ngã. “Vô” là không, “ngã” là tôi, ta, tao, tớ, mình.

Điều này rất khó hiểu, bởi tất cả chúng ta thấy rõ ràng thân mình, chân biết đi đứng, tay biết cầm nắm đồ vật (sắc); tất cả chúng ta có vui buồn (thọ), nhớ nhung (tưởng), yêu thích (hành), nhận mặt sắc màu xanh, đỏ, tím, vàng (thức) nhưng vì sao Đức Phật lại khẳng định năm uẩn này sẽ không phải là tôi, không thuộc về tôi?

Thầy Thích Trúc Thái Minh giảng giải về chủ đề “Ngũ ấm vô ngã” (ảnh minh họa)

Thầy Thích Trúc Thái Minh giảng giải về chủ đề “Ngũ ấm vô ngã” (ảnh minh họa)

1. Khi đối chiếu với Sắc uẩn

Tất cả chúng ta lầm tưởng thân này của mình có thật nhưng sự thực thì thể xác này là sự việc duyên hợp của rất nhiều yếu tố đất, nước, gió, lửa. Khi đất, nước, gió, lửa tan hoại, thể xác cũng tan hoại theo, vậy nên thể xác không phải là của tôi vì tôi không thể làm chủ được nó.

Hơn thế nữa, từng phòng ban trên thân, tất cả chúng ta đều cho đó là của mình: chân tôi, tay tôi, đầu tôi, mắt tôi…Vậy khi mất đi cái chân, cái tay thì cái tôi có mất theo không? Lời đáp là không. Bởi vì chân là chân, tay là tay nên mất đi cái chân, cái tay thì cái tôi vẫn còn. Vậy thì lục phủ ngũ tạng: tim, gan, phổi… liệu có phải là tôi không? Tất cả chúng ta cũng biết rõ lời giải đáp là không vì tim là tim, gan là gan.

Giả sử tất cả chúng ta hiến gan cho những người khác thì cái tôi cũng không mất đi, cũng không chạy sang thân thể người đó. Nếu tim ngừng đập thì có thể ghép tim thay thế, thân thể này vẫn tiếp tục hoạt động. Tương tự như vậy với tất cả những phòng ban khác trên thân thể mình; dù có mất đi thì cái tôi cũng không mất đi. Từ đó, tất cả chúng ta có thể khẳng định rằng thân thể này, tức sắc uẩn là vô ngã, không có cái tôi.

2. Khi đối chiếu với Thọ uẩn

Tất cả chúng ta thấy cảm thọ thay đổi liên tục: có khi sáng thì vui sướng, trưa thì thống khổ, chiều thì tơ tưởng. Vậy cảm thọ nào là tôi? Nếu vui sướng là tôi thì khổ lại không phải tôi. Nếu khổ là tôi thì vui sướng không phải là tôi. Vậy thì, ba cảm thọ (lạc, khổ và bất lạc bất khổ) đều không phải là tôi vì vui sướng là vui sướng, khổ là khổ, những buồn vui đó đều phải sở hữu thể thay đổi mà tôi không làm chủ được.

Đó cũng là cái nhìn khách quan của Phật giáo mà nhà Phật gọi là Minh Sát Tuệ, tức thấy rõ sự thực một cách rất sáng suốt.

3. Khi đối chiếu với Tưởng uẩn

Tư tưởng, tưởng tượng liệu có phải là tôi không? Nếu để ý, tất cả chúng ta thấy ý nghĩ của mình thay đổi liên tục, miên man không có điểm dừng. Tất cả chúng ta hết suy nghĩ những chuyện trên trời, dưới đất, lại suy nghĩ mọi chuyện từ Đông sang Tây, từ cái A tới cái B. Như vậy tất cả chúng ta thấy ý nghĩ thay đổi liên tục, không có cái gì thuộc về tôi.

4. Khi đối chiếu với Hành uẩn

Tức là những cái yêu, cái ghét, cái thích, cái chán xung quanh ta và ta tự cho đó là chính mình. Tôi thích thì tôi không chán, lúc tôi không thích thì tôi chán. Tuy nhiên, sự thực thì nếu yêu là tôi, vậy đến lúc ghét thì đó là ai? Lúc vui thì tất cả chúng ta nhận định rằng là tôi vui thế còn khi tất cả chúng ta buồn thì liệu có phải là tôi buồn không? Chính vì hành uẩn luôn thay đổi cho nên những cái này đều không phải là tôi.

5. Khi đối chiếu với Thức uẩn

Thức là những cái phân biệt, nhận mặt nhưng chúng lại nhận mặt theo sự thay đổi của duyên trần cảnh. Cảnh rộn rịp thì cảm xúc vui mừng, hoan hỉ; cảnh cãi vã thì buồn bã;… Vậy nên, sự nhận mặt này sẽ không phải là tôi vì tôi không làm chủ được nó.

Như vậy, qua phân tích sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn tất cả chúng ta đều không thấy có cái tôi trong đó. Vậy mà, tất cả chúng ta lâu nay đều lầm tưởng thân tâm này còn có thật và cũng từ thân tâm này, tất cả chúng ta đã tạo ra biết bao sự khổ cho mình, cho những người.

Lợi ích của việc tu tập quán chiếu ngũ uẩn

Tất cả chúng ta biết Sophia – một người máy thông minh, do được nạp các tài liệu lớp học vào nên ai hỏi gì, cô ấy đều trả lời được hết. Cô ấy cũng sẽ có đầy đủ các biểu hiện cảm xúc, biết vui, buồn, giận hờn, biết nói yêu thương, xử sự như một con người thật. Tất cả chúng ta nghĩ rằng khi cỗ máy đạt đến trình độ thông minh, biết phản ứng như vậy thì chắc hẳn bên trong cô người máy này còn có vong linh, gọi là cái tôi nhưng tất cả chúng ta biết rõ đây chỉ là một cỗ máy, không có một chiếc tôi nào trong đó.

Và liên hệ đến con người, tất cả chúng ta thấy thân thể vận hành như cỗ người máy vậy. Tất cả chúng ta nghĩ rằng có cái tôi trong thân thể này nhưng thực chất khi tất cả chúng ta tìm kỹ, phân tích rõ mới thấy không có một chiếc tôi nào ở trong thân thể mình. Và đây đấy là phát minh đặc biệt quan trọng của Phật giáo, phá vỡ mê lầm của tất cả chúng ta từ lâu nay nay. Nếu những ai có thực hiện Pháp, tất cả chúng ta sẽ thấy rõ lời Đức Phật dạy là đúng, không có cái tôi nào nơi thể xác này. Vậy, làm rõ lý vô ngã (không có cái tôi) sẽ mang lợi ích gì cho tất cả chúng ta?

Khi hiểu được lý vô ngã, tất cả chúng ta sẽ sống an lạc hơn bởi tất cả chúng ta không còn chấp cái tôi, cái ngã của mình. Tất cả chúng ta hiểu rằng, những chuyện thống khổ trên đời xẩy ra đều do tất cả chúng ta mê lầm ảo tưởng rằng, thân tâm này còn có cái tôi. Đức Phật là người dân có trí tuệ siêu việt, thấu suốt mọi sự thực của vũ trụ này và Ngài chỉ ra cho nhân loại thấy, giữa thể xác (sắc) và phần tâm linh (thọ, tưởng, hành, thức) chỉ là một tổng hợp, duyên hợp mà thành, chịu sự chi phối của luật vô thường chứ không có cái gì thật là tôi trong đó cả.

Tất cả chúng ta phải tư duy, quán chiếu thì mới có thể có thể xâm nhập, làm rõ được đạo lý vô ngã của cuộc đời này. Muốn tu học Phật Pháp, muốn tu tập tiến bộ thì tất cả chúng ta phải nhìn cho đúng sự thực rằng không có cái tôi nào trong thân tâm này; thấy được mọi sự khổ đều được dựng lên từ cái tôi, từ bản ngã này. Quả tình, tất cả chúng ta sống một đời, làm điều gì rồi cũng vì tôi nhưng cái tôi lại không hề có thật.

Khi một con người đã đạt được, chứng ngộ sự vô ngã thì người đó không còn tâm ích kỷ, tức là không còn bản ngã; mà chỉ với vị tha, từ bi yêu thương. Như chư Phật, Nhân tình Tát, cho tới các vị Thánh Tăng đã giác ngộ lý vô ngã này thì những Ngài không còn bị trở ngại bởi bất kỳ điều gì nữa mà ở các Ngài chỉ có sự an lạc, sự sung sướng vĩnh viễn.

Từ lời giảng của Thầy Thích Trúc Thái Minh, mong rằng nội dung bài viết này sẽ giúp quý Phật tử hiểu được lời Đức Phật dạy “ngũ ấm vô ngã”. Hiểu được lý vô ngã để không đắm chấp thân tâm mình; từ đó, tất cả chúng ta biết sử dụng “phương tiện” thân tứ đại của mình làm các nghiệp thiện lành cùng với tâm từ bi yêu thương thì phước lành sẽ tới với tất cả chúng ta và góp phần giúp thế giới này sẽ trở thành tốt đẹp hơn.

You May Also Like

About the Author: v1000