Postscript và PDF khác biệt nhau ở điểm nào? Những dòng máy in PostScript

Chúng tôi vui mừng chia sẻ kiến thức về từ khóa Postscript la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Trong nghành nghề thiết kế tạo mẫu và chế bản điện tử, tất cả chúng ta đã quen với khái niệm Postscript. Thời kì khoảng chừng 3 năm gần đây tất cả chúng ta lại nghe biết một khái niệm mới đó là PDF (Portable Document Format). Vậy Postscrip và PDF khác biệt nhau ở điểm nào. Nếu như bạn không phải là nhà chế bản chuyên nghiệp, hay chưa xuất hiện dịp tìm hiểu chúng thì sự khác biệt này là một khái niệm mơ hồ hoặc cho nhận định rằng PDF là một định dạng tài liệu để chuyển các tài liệu điện tử trên mạng. Thực ra PDF còn tồn tại nhiều ứng dụng hơn thế nữa, nhất là trong nghành nghề đồ họa-In ấn, hiện nay người ta nói đến việc PDF sẽ thay thế cho Postscript. Bạn có bao giờ nghĩ vì sao lại như vậy không? Vậy PostScript (PS) là gì, PDF là gì, PDF có những tiện ích gì?

POSTSCRIPT LÀ GÌ?

Tiếng nói Postscript do 2 Chuyên Viên Chuck Geschke và John Warnock sáng tạo nhằm điều khiển và tinh chỉnh máy in thể hiện những gì có trên trình ứng dụng của máy tính. Hai ông cũng là những người dân sáng lập nên hãng Adobe rất nổi tiếng trong ngành đồ họa hiện nay.

Bạn Đang Xem: Postscript và PDF khác biệt nhau ở điểm nào? Những dòng máy in PostScript

PostScript là một tiếng nói mô tả trang, là một giao thức được sử dụng để giao tiếp giữa các trình ứng dụng như QuarkXpress hoặc Corel Draw, Adobe InDesign… với những thiết bị xuất như máy in laser, máy ghi film hoặc máy ghi bản. Như vậy ta chỉ quan tâm đến tiếng nói PostScript khi cần xuất các tài liệu đồ họa phục vụ cho công việc chế bản in.

PostScript là một tiếng nói máy tính, là một tiếng nói lập trình Lever cao, tức thị nó có cấu trúc ngữ pháp và vốn từ chuyên biệt để tạo ra bảng list mã lệnh thông tin cho khối hệ thống máy tính những gì cần làm. Cũng như các tiếng nói máy tính khác, chỉ việc có một sự sai lệch nhỏ trong quy ước xác định của tiếng nói cũng đủ để tạo ra lỗi và khối hệ thống máy tính sẽ không còn thực hiện được bất kì thao tác nào tiếp theo. Vậy nếu một lớp học ứng dụng như Corel Draw không biên dịch đúng nội dung của bản thiết kế bằng Corel sang tiếng nói PS thì khi xuất phim hay ghi kẽm sẽ xuất hiện các lỗii sai hỏng về màu, hình ảnh, font chữ…

PostScript là một tiếng nói Lever cao. Điều này còn có tức thị người sử dụng máy tính có thể xem mã lệnh và nắm vững chúng là gì. Nếu mở chúng bằng lớp học soạn thảo hoặc một lớp học xử lý từ thì nó hiển thị như sau:

“%% BeginProlog %%BeginResource: procset Adobe PS_Win_Feature_Safe 4.2 0 usedict begin/lucas 21690 def /featurebegin {countdictstck lucas[}bind def / featurecleanup {stopped {cleartomark dup lucas eq {pop exit}if}loop countdictstack exch sub 0 gt{ {end}repeat} {pop} ifelse} bind def end %%EndResource”

PostScript là một lớp học biên dịch độc lập với thiết bị, tức thị một trang tài liệu PostScript có thể được in trên mọi máy in PostScript hoặc máy ghi film, ghi bản mà vẫn đạt được chất lượng sản phẩm và độ phân giải tối đa. Trình biên dịch này sẽ chuyển các tài liệu sang mã thiết bị đặc biệt quan trọng và điều khiển và tinh chỉnh thiết bị xuất để tạo các hình ảnh đồ họa đã được mô tả trong trang. Nó sẽ xử lý từng thành phần một, xử lý xong thành phần này sẽ xử lý thành phần kế tiếp

Kết quả mà tiếng nói In PostScript đem lại là:

– Hiệu quả – Giảm bớt các bước – không cần cắm USB vào PC để in tệp PDF / PS; thay vào đó, hãy in trực tiếp từ màn hình hiển thị cảm ứng HP trực quan.

– Chất lượng sản phẩm và dịch vụ – Thể hiện xác thực từng chi tiết cụ thể trong tầm nhìn của bạn với độ phân giải sắc nét, sắc tố rực rỡ, đường nét xác thực và độ phân giải vượt trội.

– Tính linh hoạt – Xử lý các tài liệu phức tạp, bản vẽ kỹ thuật, sơ đồ, sơ đồ mặt bằng, bản thiết kế, maps, sơ đồ, render 3D PDF, JDF, CAD, GIS và các tệp khác một cách dễ dàng và hiệu quả.

– Độ xác thực – Đảm bảo các tệp PDF của bạn xử lý Theo phong cách bạn dự kiến – tránh ngắt xuống dòng, in ấn và các lỗi khác.

Cách hoạt động của tiếng nói in Adobe PostScript

– Khi người dùng chọn in, trình điều khiển và tinh chỉnh máy in của máy tính của họ sẽ tự động hóa tạo tệp tiếng nói PostScript gồm có các mô tả về kích thước và định dạng file cần in, nơi đồ họa sẽ tiến hành đặt và cách xử lý sắc tố. Nói cách khác, tệp cho máy in biết phương pháp đặt các px của tài liệu lên trang.

– Sau lúc được gửi đến máy in, tệp tiếng nói được xử lý bởi bộ xử lý hình ảnh raster (RIP) bên trong thiết bị. RIP dịch các hướng dẫn từ ứng dụng, tối ưu hóa tệp tiếng nói PostScript cho máy in cụ thể và tạo ra một mảng px được gọi là hình ảnh raster được chuyển tiếp đến thiết bị cần in – xác thực như cách người dùng hình dung trong ứng dụng gốc.

Vì sao bạn nên chọn máy in HP Designjet với tiếng nói in Adobe PostScript?

  • Sự đổi mới thông minh của công nghệ in HP Designjet và hiệu suất cao của phần mềm Adobe PostScript 3 RIP, giúp đỡ bạn dễ dàng tạo ra các bản in chất lượng sản phẩm tuyệt đỉnh và hiệu quả.
  • Nhiều nhà sinh sản máy in, sử dụng PostScript giả lập như một giải pháp thay thế ngân sách thấp để trả phí bản quyền cho Adobe; tuy nhiên, HP chỉ gồm có Adobe PostScript thực sự trong các sản phẩm Designjet của mình để đảm bảo bạn có trải nghiệm in chất lượng sản phẩm chất lượng cao từ trên đầu đến cuối.
  • Ngoài ra, trên một số máy in đa năng MFP không có PostScript, bạn không thể quét sang PDF. Vì vậy, nếu “.pdf” là loại tệp ưa thích của bạn, thì một máy in nhiều chức năng MFP với PostScript nên được xem xét trong quyết định mua của bạn.
  • Không chỉ có vậy, Ưu điểm mạnh mẽ của tiếng nói PostScript là nó độc lập với thiết bị. Chúng ta có thể đang sử dụng bất kỳ loại hệ điều hành hoặc nền tảng nào Máy Windows, Mac.. thì bạn vẫn có thể thao tác với tiếng nói này. Trên thực tế, bạn thậm chí còn sẽ có được tùy chọn chuyển đổi qua lại giữa các nền tảng khác nhau mà không cần thay đổi định dạng hoặc thực hiện bất kỳ chuyển đổi nào. Một lợi ích tuyệt vời khác của việc sử dụng tính năng in PostScript là nó tương thích với toàn bộ mạng của bạn bất kể thiết bị nào đang rất được sử dụng trên đó.

Một số dòng máy in HP Designjet PostScript mà bạn nên dùng?

Xem Thêm : &quot Source Mac Address Là Gì ? Địa Chỉ Mac Quan Trọng Như Thế Nào?

1. Máy in HP DesignJet T920 36-in PostScript Printer (CR355A)

Nâng cao kinh nghiệm in ấn của bạn với tải giấy phía trước, đầu ra được xếp khay giúp tổ chức và bảo vệ bản in của bạn và cung cấp kết quả in chuyên nghiệp. Truy cập và in dự án của bạn trong cả khi chúng ta không có mặt tại văn phòng với HP Designjet ePrint & Share.

2. Máy in HP DesignJet Z6dr 44-in PostScript Printer with V-Trimmer (T8W18A) & Máy in HP DesignJet Z6 44-in PostScript Printer (T8W16A)

Đọc chi tiết cụ thể rõ ràng hơn và thể hiện màu có độ tương phản cao với đầu in HP độ phân giải cao mới. Không cần mực in với công nghệ giọt kép của HP. Máy đã sở hữu độ phân giải mượt mà, trong cả so với các phối hợp màu khó, với HP Px Control.

3. Máy in HP DesignJet T2600 36-in PostScript Multifunction Printer (3XB78A)

Trải nghiệm cực kỳ đơn giản với giao diện 15,6 inch thông minh và in PDF đơn giản nhất với HP Click. Thao tác làm việc hợp tác với những nhóm nhanh chóng, truy cập các thư mục được san sớt để in và quét. Dễ dàng in và san sớt công việc từ đám mây với thiết bị di động và ứng dụng HP Smart.

4. Máy in HP DesignJet T2600dr 36-in PostScript Multifunction Printer (3EK15A)

Được mệnh danh là chiếc máy in khổ lớn an toàn nhất thế giới, HP DesignJet T2600 được trang bị khả năng bảo vệ mạng tốt nhất với tính năng HP Secure Boot và trình bảo mật thông tin HP JetAdvantage được chấp nhận kiểm soát người truy cập máy in, kèm Từ đó là chức năng xác thực người dùng an toàn với những tài liệu kín đáo sẽ giúp đỡ bạn hoàn toàn loại bỏ những sự nhòm ngó của khá nhiều đối tượng người sử dụng xấu.

5. Máy in HP DesignJet T1600dr 36-in PostScript Printer (3EK13A)

Nhắc tới các dòng máy in A0 của HP khách hàng sẽ hoàn toàn bị chinh phục bởi chất lượng sản phẩm bản in tuyệt hảo cùng những tính năng vượt trội được nâng cấp theo từng dòng máy, HP DesignJet T1600dr 36-in PS Printer – 3EK13A là một mã máy với nhiều đặc điểm nổi trội, xứng danh là lựa chọn hàng đầu trong các dòng máy cùng phân khúc thị trường.

6. Máy In HP DesignJet T930 36-in PostScript Printer (L2Y22A)

Các bản vẽ dự án của các bạn sẽ được thể hiện siêu sắc nét cho khách hàng với 6 loại mực được thiết kế với những gam màu lý tưởng cho đồ họa, độ xác thực dòng với độ phân giải lên tới mức 2400dpi.

7. Máy in HP DesignJet XL 3600 36-in Multifunction Printer with PostScript/PDF (6KD24A)

Xem Thêm : Niên mệnh năm sinh là gì? Cách tính cung mệnh theo năm sinh

Với trang trước tiên in ra nhanh nhất, không còn phải mong chờ lâu. Nhỏ gọn để phù phù hợp với văn phòng của bạn và mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người, Máy in đa năng này cũng cung cấp bảo vệ mạng lưới tốt nhất.

8. Máy in HP DesignJet T1708 44-In PostScript Printer (1VD84A)

Chuyên được dùng cho bản vẽ thiết kế kiến trúc, xây dựng, cơ khí mô phỏng máy móc, trắc địa maps, thông tin địa lý, khai thác khoảng chừng sản, quảng cáo trong nhà ( banner, standee…), báo biểu, bản biểu khổ lớn phục vụ cho văn phòng.

9. Máy in HP DesignJet Z5600 44-in PostScript Printer (T0B51A)

Tăng hiệu suất nạp giấy in vận hành lên tới mức 75% với tính năng in nhiều cuộn tự động hóa. In nhanh hơn tới 39%—tiết kiệm ngân sách thời kì cho bản vẽ kỹ thuật với Mực in ảnh HP Vivid khô nhanh. Dễ dàng—in ấn một lần nhấp chuột, màn hình hiển thị cảm ứng màu, xem trước bản in, in qua ổ đĩa flash USB trực tiếp, email.

10. Máy in HP DesignJet T3500 MFP 36-in PostScript (B9E24B)

SƠ LƯỢC VỀ PDF

Vì sao lại dùng PDF?

PDF (Portable Document File) hiện nay được sử dụng phổ thông trong ngành in do những nguyên nhân sau: • Kích thước file nhỏ gọn nên việc truyền và trao đổi tài liệu dễ dàng hơn. • Độc lập với thiết bị và hệ điều hành: có thể xem trên PC, Mac lẫn Linux • Quá trình biên dịch được thực hiện nhanh, lẹ. • PDF là một định dạng file không còn phụ thuộc vào thiết bị có tức thị nó độc lập với phần mềm ứng dụng, phần cứng và hệ điều hành dùng để làm tạo ra nó, nó không chỉ chứa thông tin mô tả trang mà nó còn chứa cả font chữ, hình ảnh và các siêu liên kết. • Có khả năng mã hóa bảo mật thông tin, hỗ trợ cho những thông tin được đảm bảo an toàn hơn. • File khách hàng đưa cho ta có thể dược làm từ nhiều nguồn khác nhau có thể từ AI, CorelDrawn, InDesign, QuarkXpress,… vậy PDF là một chuẩn để ta có thể gộp chung tất cả chúng lại và thao tác trong môi trường tự nhiên bình trang điện tử. • Dễ dàng tách các trang tài liệu khi bình. • Không chứa bất kì thông tin điều khiển và tinh chỉnh thiết bị nào. • Là một tấm film điện tử có thể hiển thị được trên màn hình hiển thị giúp ta có thể kiểm tra và khắc phục được một số lỗi trước lúc ghi ra phim hoặc kẽm. PDF không những có thể được biên dịch trực tiếp bởi RIP mà nó còn thể hiện tất cả những đối ượng trên màn hình hiển thị một cách rõ ràng chứ không phải là các mã lệnh như file Postscript. Khi một file PDF hiển thị trên màn hình hiển thị thì file đó giống như đã được RIP biên dịch và thật sự là “ what you see is what you get” có tức thị nếu ta nhìn thấy đối tượng người sử dụng trên màn hình hiển thị thế nào thì ta sẽ nhận được tờ in như vậy.

Các phiên bản của PDF

1. PDF 1.0: Đây là phiên bản trước tiên của định dạng PDF và được nghe biết vào năm 1992. PDF 1.0 không tương trợ cho in ấn, không gian màu duy nhất được sử dụng là RGB. Nó có những đặc điểm sau: • Tạo được đường dẫn ngoài • Tính năng bảo mật thông tin. • Sắc tố độc lập với thiết bị. • Tạo ghi chú.2. PDF 1.2 (1996) – đi kèm với phiên bản Acrobat 3.0 • Sử dụng phiên bản OPI 1.3 • Sử dụng không gian màu CMYK • Gật đầu việc sử dụng màu pha trong tài liệu • Các đặc tính về góc xoay tram, xác suất tram, tính chất overprint đều được tương trợ.3. PDF 1.3 (1999 )- đi kèm với phiên bản Acrobat 4.0. • Tương trợ không gian màu: ICCBased và DeviceN ICCBased • Tương trợ tiếng nói Postscript Level 3. Do đó, các vùng màu tô chuyển (Gradient) vẫn đảm bảo được độ mịn và nhuyễn giữa ranh giới các tông màu nền, không khiến ra hiện tượng lạ chuyển tông màu nền thành từng bậc như ở các phiên bản trước đó. • Khái niệm các dạng khuông trang trong tài liệu như tiếp thị quảng cáo box, crop box, bleed box, trim box và art box. • Tương trợ trapping • Tương trợ OPI 2.0. • Tương trợ font 2-byte CID.4. PDF 1.4 (2001) – đi kèm với phiên bản Acrobat 5.0 • Tương trợ tính chất transparency: đây là đặc điểm nổi trội nhất được trong phiên bản PDF 1.4. • Sử dụng các tín hiệu kiểm tra như thang xám, thang màu, bon chồng màu, bon thành phẩm trong tài liệu. • Dẫn nhập nội dung tài liệu PDF vào một trong những tài liệu PDF khác. • Bổ sung tùy chọn Output Intent5. PDF 1.5 (2003) – đi kèm với phiên bản Acrobat 6.0 • Giải thuật thuật nén JPEG2000 (phương pháp nén hạn chế sự mất thông tin hơn so với JPEG và CCITT) và đồng ý hình ảnh 16 bit trong tài liệu. • Bảo toàn layer khi chuyển thành file PDF từ phần mềm ứng dụng.6. PDF 1.6 (2006) – đi kèm với phiên bản Acrobat professional 7.0. • Cải tiến không gian màu DeviceN để tương trợ cho không gian màu Nchannel. • Thuận tiện hơn khi nhúng font Opentype. • Tương trợ đối tượng người sử dụng 3D. • Khả năng hiển thị hình ảnh tốt hơn.7. PDF 1.7 ( 11/2006) – đi kèm với phiên bản Acrobat 8.0 Tương trợ RSS và E4X, ECMAScripts cho chuẩn XML.8. PDF/X PDF/X-1: xuất hiện năm 1999 được xây dựng dựa trên những đặc tính của PDF 1.2. • Khả năng nhúng được những tài liệu đặc biệt quan trọng (như file copydot). • Khái niệm khuông bleed, trim và art. • Kiểm tra trapping (bằng cờ hiệu ON hay OFF). • Chỉ tương trợ một vài thuật toán nén.9. PDF/X-1a: xuất hiện năm 2001 được xây dựng dựa trên những đặc tính của PDF 1.3 (Acrobat 4.) • Tương trợ thêm không gian màu DeviceN (gồm có cả hình multitone). • Tăng chất lượng sản phẩm của khá nhiều cơ chế hòa trộn.10. PDF/X-2- xuất hiện năm 200311. PDF/X-3 – tương trợ quản lý màu12. PDF/X-4 và PDF/X-5 – xuất hiện trong năm 2007 • Nhúng được font open type. • Được chấp nhận giữ lại layer và tính chất trong suốt. • Cho dùng hình ảnh 16 bit. • Khả năng link với nhiều profile.

PDF và các chuẩn công nghiệp:

Tùy thuộc vào mục tiêu công việc mà người ta sẽ dùng Pdf theo chuẩn nào. Sau đây là một số chuẩn pdf • Lưu trữ tài liệu: dùng định dạng PDF/A, là định dạng được tổ chức ISO xác nhận vào tháng 5/2005. Định dạng này dùng để làm lưu trữ những tài liệu cần thời kì lưu trữ lâu dài. • Xuất bản: dùng định dạng PDF/X, định dạng này hỗ trợ cho việc chuyển đổi tài liệu dễ dàng hơn. Những nhà in, những nhà thiết kế đồ họa hay các Chuyên Viên sáng tác đều sở hữu thể sử dụng định dạng này. • Thiết kế: sử dụng định dạng universal 3D (U3D), là định dạng mở rộng dùng để làm san sớt và hiển thị những thiết kế 3D, các file 3D có thể được nhúng trực tiếp vào file PDF giúp dễ dàng hơn trong việc truyền tài liệu, kiểm tra hay phục vụ cho những mục tiêu khác nhau. • Kỹ thuật: dùng định dạng PDF/E, là định dạng được thừa nhận bởi tổ chức ISO, nó cung cấp những hướng dẫn tương trợ cho việc chuyển đổi file tài liệu hay file vẽ. Các kiến trúc sư, kỹ sư, các Chuyên Viên xây dựng hay các nhà sinh sản nội thất bên trong đều sở hữu thể dễ dàng chuyển đi những thông tin về bản vẽ, kiểm tra, thay đổi thậm chí còn cả những hình ảnh 3D phức tạp ngay trong bản vẽ. • Việc truy cập: Dùng định dạng PDF/UA, là định dạng dùng cho những thông tin truy cập mang tính toàn cầu. Các doanh nhân những đơn vị cơ quan chỉ đạo của chính phủ có thể dùng PDF/UA hỗ trợ cho việc truy cập trao đổi tài liệu được dễ dàng hơn. • Những ứng dụng thông thường: dùng định dạng PDF với những phiên bản từ trước tới nay, thãng 1/2007 Adobe cho ra đời phiên bản 1.7 được tương trợ bởi acrobat 8.

RIP HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?

Nhìn chung mỗi RIP đều nhận tài liệu (các trang được mã hóa trong PostScript hoặc PDF), thực hiện việc xử lý chúng và sau đó gửi tài liệu xuất đến thiết bị ghi. Có nhiều phương pháp để RIP nhận tài liệu. Nhưng trước tiên hãy xem xét cách tạo tài liệu tài liệu như sau:

1.1 Quá trình tạo tài liệu

• Tạo một trang tài liệu trong PageMaker, QuarkXpress hoặc CorelDraw và chuẩn bị sẵn sàng in. • Trên máy PC cũng như trên máy MAC chọn một Driver máy in Postscript để in tài liệu từ trình ứng dụng sang PS. Việc lựa chọn máy in đó là thông tin cho hệ điều hành phiên bản của Driver PostScript dùng để làm tạo file PostScript cần in. • Một số trình ứng dụng như Adobe Illustrator sử dụng PostScript như định dạng tài liệu bên trong nó. Điều này còn có tức thị nó không phải thao tác nhiều để tạo ra file xuất, mà chỉ việc thêm một số phần như từ vị, tài liệu font, tài liệu phụ thuộc thiết bị như độ phân giải tram. • Hồ hết những lớp học ứng dụng cho chế bản chỉ sử dụng định dạng tài liệu của riêng chúng và tự chuyển định dạng tài liệu này thành file PostScript. Chúng cũng luôn tồn tại thể dựa vào một trong những phần driver PostScript của hệ điều hành để xử lý phần chuyển đổi này. • Các trình ứng dụng văn phòng như MS Word, Excel dựa vào Driver PostScript để tạo ra tài liệu PostScript. Có tức thị bằng phương pháp chuyển một driver PostScript sang driver khác thì có thể gặp vấn đề nếu có liên quan đến driver riêng. Khi một file đã in ở dạng PostScript, nó sẽ hướng tới việc chọn thiết bị ghi.

1.2 Kênh nhận tài liệu:

Phần nhiều các RIP đều tương trợ nhiều kênh nhận tài liệu khác nhau như • Apple Talk: RIP có thể thể hiện trên khối hệ thống thao tác như một máy in laser. Người sử dụng máy MAC sẽ chọn RIP trong Chooser và in sang dạng file. Đây là cách in đơn giản nhất nhưng cho tốc độ chậm. • TCP/ IP: RIP có thể tương trợ LPR_một giao thức tiêu chuẩn của UNIX hoặc giao thức Streaming của Helios. Tức là có thể in sang một máy in Helios Ethershare và file này sẽ sử dụng giao thức TCP/IP để chuyển sang nhanh sang RIP. • Hotfolders: hồ hết các RIP mềm có thể theo dõi một số thư mục (thư mục) và xử lý bất kì file PostScript hoặc file PDF mà nó nhìn thấy. Chỉ việc in trang tài liệu vào ổ đĩa và đặt file PostScript vào Hotfolder, chỉ với sau vài giây RIP sẽ ghi nhận file và xuất nó ra. Đây là những kênh nhận tài liệu phổ thông nhất, nhưng còn tồn tại nhiều kênh tiếp thị khác cũng rất tốt. RIP PostScript 3 có thể tương trợ khối hệ thống được gọi là “sẵn sàng in qua web”. Điều này được chấp nhận in qua RIP thông qua Internet. Một máy in laser cơ bản có thể mang đến cổng kết nối Local Talk, Serial, hoặc Parallel. Nhìn chung có nhiều phương thức gửi tài liệu sang RIP. Sự linh hoạt so với các kênh nhận và xuất tài liệu là đặc tính quan trọng so với RIP.

1.3 Quá trình xử lý

Trước tiên RIP sẽ chuyển nội dung trong PostScript sang định dạng trung gian gọi là Display list (list hiển thị). List hiển thị này chứa sự mô tả trang ở tầm mức độ phù phù hợp với thiết bị xuất. Thay vì sử dụng đơn vị là mm hoặc point thì tất cả những đối tượng người sử dụng trong list hiển thị được định vị ở dạng px. Các đối tượng người sử dụng này sẽ không còn là một file TIFF hay EPS hay font chữ nữa. RIP xử lý tất cả những đối tượng người sử dụng trong một trang và nếu cấp thiết sẽ chuyển chúng sang định dạng trung gian và lưu trữ trong list nguồn. Ví dụ như sử dụng font Avant Grarde co 20 point tại vị trí nào đó trên trang tài liệu, RIP sẽ lấy tài liệu outline của font (font máy in) để tính toán từng ký tự riêng lẻ. Phải xuất đúng kích thước, độ phân giải và lưu trữ những ký tự bitmap này trong fontcache. Trong PostScript level 1, những font cache này được lưu túc trực trên ổ đĩa. Sau một vài ngày hoặc vài tuần, chúng sẽ chiếm quá nhiều chỗ làm cho RIP thiếu chỗ để lưu trữ tài liệu khác. Điều này gây ra những lỗi như “Limitcheck” hoặc “VMerror”. Người sử dụng phải xóa tất cả tài liệu tạm thời bằng phương pháp xóa các fontcache. Adobe đã khắc phục nhược điểm này trong PostScript level 2. RIP nỗ lực giữ lại list hiển thị và list nguồn trong bộ nhớ chính lâu hơn nhưng nếu kích thước tài liệu quá to thì nó sẽ luôn trữ trên một Swapfile của ổ đĩa. Những file chứa nhiều hình ảnh được quét sẽ tạo ra list nguồn lớn, trong lúc file chứa các đối tượng người sử dụng đồ họa phức tạp từ Illustrator hoặc trình ứng dụng đồ họa khác lại tạo ra list hiển thị lớn. Tuy nhiên, RIP sẽ chạy chậm hơn nếu đĩa cứng thiếu chỗ trống. Đó là lý do vì sao mà RIP phải chạy trên khối hệ thống có RAM tới vài GB. Khi list hiển thị đã hoàn chỉnh, RIP sẽ tiến hành phân điểm nội dung trang và gửi tài liệu bitmap tới thiết bị xuất. Một số nhà sinh sản thêm các bước bổ sung vào quá trình xử lý này và chuyển đổi list hiển thị sang định dạng trung gian. Ví dụ hãng Scitex sử dụng CT/LW như thể một định dạng trung gian và thêm Rasterboard vào máy ghi film để thực hiện việc phân điểm ảnh nhằm để RIP thực hiện chức năng bổ sung như Trapping. Ngoài ra, phần mềm bình bản cũng luôn tồn tại thể được đưa vào giữa quá trình suy diễn và quá trình phân điểm ảnh của một file. Khi file đã được xử lý thì bước tiếp theo là gửi nó đến thiết bị xuất.

1.4 Quá trình xuất tài liệu (output)

Quá trình phân điểm ảnh có thể tốn nhiều thời kì và tạo ra một file có kích thước lớn khi gửi sang thiết bị xuất. Một vài RIP chia tách những tài liệu này thành từng phần nhỏ và tuần tự gửi tới máy ghi. Các RIP khác lại lưu trữ toàn bộ tài liệu bitmap ở RAM hoặc ổ cứng và sau đó tài liệu này được đưa đến thiết bị xuất. Phòng ban lưu trữ trung gian này gọi là Frame buffer. Tất cả máy in laser sử dụng một buffer được lưu trữ trong RAM. Điều này lý giải vì sao những trang phức tạp có thể gây lỗi PostScript thiếu bộ nhớ trên máy in: RAM không đủ dung tích lưu trữ tài liệu trung gian và frame buffer. Sự lựa chọn giữa việc xuất tài liệu theo từng phần và dùng frame buffer được xác định bởi thiết bị kết nối vào chu trình thao tác. Xuất tài liệu theo từng phần là cách giao tiếp đơn giản nhất giữa RIP và thiết bị. Ở một số máy ghi film không tương trợ “start_stop”. Điều này còn có nghĩa chúng cần tất cả tài liệu cùng một lúc, so với những khối hệ thống như vậy thì phải sử dụng frame buffer. Frame buffer có thể làm tăng tốc độ cho quá trình xử lý tài liệu, vì có thể tiếp tục xử lý tài liệu trong lúc máy ghi đang tiến hành xuất film. Việc kết nối giữa RIP và thiết bị ghi cũng vô cùng quan trọng. Có nhiều giải pháp được sử dụng như: •Nhiều nhà sinh sản sử dụng chính giao diện và phần cứng của họ để kết nối RIP với thiết bị ghi. Hãng Agfa có giao diện SCSI, hãng Scitex sử dụng sự kết nối quang đãng học giữa hai thiết bị. • Việc kết nối giữa RIP và thiết bị ghi qua mạng có thể vận dụng nếu tài liệu truyền giữa hai thiết bị không vượt quá đường truyền 10_100Mbit. Loại kết nối này thường dùng cho máy Plotter. •Những máy in thử rẻ tiền hơn thì có thể sử dụng cổng kết nối Serial hoặc Parallel.

QUI TRÌNH LÀM VIỆC RIP

•-Dùng Acrobat Distiller: từ trình ứng dụng ta xuất ra các định dạng file postrip như: *.PS, *.PRN, *.EPS, *.SEP sau đó dùng Distiller dịch ra định dạng file PDF. Tuy vậy với cách này ta không thể giữ được hiệu ứng transparency từ các trình ứng dụng vì các đối tượng người sử dụng transparency đã trở nên trộn lại (plattern), nguyên nhân do quá trình postrip bằng distiller cũng là một quá trình in nên nó đã ép hết tất cả những layer về một lớp duy nhất. •-Từ trình ứng dụng ta chọn lệnh Print, tại mục Printer chọn máy in là Adobe PDF, sau đó thiết lạp các tùy chọn cấp thiết để in ra file PDF. •-Dùng PDF library: đây là thư viện PDF được tích hợp vào các trình ứng dụng giúp ta có thể chuyển đổi trực tiếp từ trình ứng dụng qua PDF mà không cần qua quá trình dịch với Distiller. Với cách làm này ta có thể giữ được transparency cũng như những hiệu ứng khác cho PDF với xét tuyển trong option tùy chọn ta phải chọn acrobat 5 (PDF 1.4) trở lên. •-Dùng lệnh export, Publish.Xem thêm: Máy in khổ lớn – máy in khổ lớn Like New 99% Nguồn: Vietnamprint (theo HĐAK)

You May Also Like

About the Author: v1000

tỷ lệ kèo trực tuyến manclub 789club