
Onshore
Onshore (thường được gọi là sinh sản tại chỗ) đề cập đến việc sinh sản sản phẩm ngay tại thị trường tiêu thụ. Ví dụ, một doanh nghiệp ở California sẽ lựa chọn các đối tác thuê ngoài sinh sản của họ ở New Jersey, mặc dù là hai bang khác nhau nhưng trong cùng một quốc gia.

Ưu điểm nổi trội nhất của quy mô phát triển này là doanh nghiệp và các đối tác thuê ngoài tới từ cùng một nền văn hóa cổ truyền, nói cùng một tiếng nói. Đặc biệt quan trọng, việc họp mặt trực tiếp hay tiến hành tập huấn có thể tiến hành một cách dễ dàng và tiết kiệm chi phí thời kì hơn.
Tuy nhiên, vấn đề trước tiên và lớn số 1 trong mô hình Onshore là tốn kém ngân sách hơn nhiều so với Nearshore hay Offshore thực hiện cùng một công việc. Theo Glassdoor, một website được chấp nhận đăng tin tuyển dụng miễn phí cũng như nhìn nhận người sử dụng lao động tại Mỹ, mức lương trung bình của nhiều nhà phát triển ở Mỹ vào năm 2020 khoảng chừng 95 nghìn USD, trong những lúc đó, mức lương trung bình của nhiều nhà phát triển ở Na Uy khoảng chừng 607 nghìn NOK (tương đương 74 nghìn USD). Thêm vào đó, phạm vi mô hình thường hẹp hơn vì số lượng nhân tài bị hạn chế, điều này làm giảm sự lựa chọn.
Nearshore
Nearshore đề cập đến việc sinh sản tại các quốc gia gần với thị trường tiêu thụ và thường có múi giờ tương tự, hoặc sự khác biệt tối thiểu. Ví dụ, khi đối chiếu với Mỹ, các lựa chọn tốt nhất là Canada, Mexico hoặc Mỹ Latinh.

Giải pháp này được nhiều người xem là đôi bên cùng có lợi. Nó xuất phát từ thực tế là doanh nghiệp vẫn có thể tiết kiệm chi phí ngân sách nhân lực so với mô hình Onshore, nhưng không phải lo lắng về việc thao tác ở các múi giờ khác nhau. Ngoài ra, doanh nghiệp vẫn có thể đảm bảo kiểm soát quá trình phát triển một cách hiệu quả và thuận tiện. Tuy nhiên, sự khác biệt về tiếng nói và văn hóa truyền thống vẫn có thể xẩy ra đôi chút.
Offshore
Offshore đề cập đến việc sinh sản sản phẩm tại những quốc gia xa xôi với sự khác biệt đáng kể về múi giờ. Thông thường, khi đối chiếu với Hoa Kỳ, điều này vận dụng cho những quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc hoặc Ukraine.

Một số lợi ích tiềm năng mà mô hình này mang lại sở hữu thể nói tới như tiếp cận nguồn nhân tài toàn cầu mà không bị hạn chế, thuê hàng ngũ Chuyên Viên với ngân sách thấp hơn so với hai mô hình sót lại.
Trái lại, một số rủi ro doanh nghiệp cần lưu ý khi thực hiện mô hình Offshore, gồm có sự chênh lệch múi giờ đáng kể hay sự khác biệt về văn hóa truyền thống. Đặc biệt quan trọng, do khoảng chừng cách về địa lý, việc tập huấn, quản lý và kiểm soát các hoạt động sinh hoạt của đối tác cũng diễn ra khó khăn hơn. Để khắc phục vấn đề này, một số doanh nghiệp lên kế hoạch cẩn thận về lộ trình thao tác của nhóm túc trực và nhóm thuê ngoài, để công việc trong các dự án được diễn ra một cách tiện lợi.
Đâu là sự việc lựa chọn tối ưu nhất?
Có thể thấy, hồ hết các tổ chức cần phải kiểm soát và điều chỉnh danh mục nhà cung cấp của họ dựa trên nhiều đặc tính của sản phẩm và thị trường. Ví dụ, Zara sử dụng các nguồn đáp ứng phía ngoài châu Âu để sinh sản các sản phẩm hợp thời trang và khả năng đáp ứng nhanh chóng. Trái lại, những món đồ cơ bản như áo phông thun trắng lại sở hữu nguồn gốc từ các cơ sở có ngân sách thấp hơn ở châu Á. Như với Zara, một sự lựa chọn tối ưu gồm có sự phối hợp của nhiều nhà cung cấp đáp ứng nhanh và ngân sách thấp.
Để sử dụng danh mục góp vốn đầu tư phù hợp một cách hiệu quả, nhu cầu cần được phân bổ giữa các nhà cung cấp, sao cho phù phù hợp với khả năng của họ. Bảng tại chỗ này thể hiện các nhân tố ảnh hưởng tác động đến việc lựa chọn nguồn cung cấp ứng có khả năng đáp ứng nhu cầu nhanh chóng hay nguồn cung cấp ứng với ngân sách thấp.

Nhìn chung, nếu doanh nghiệp muốn tìm nguồn cung cấp ứng có khả năng đáp ứng nhu cầu nhanh chóng, họ sẽ sở hữu được xu hướng vận dụng mô hình Onshore hoặc Nearshore. Trái lại, nếu mục tiêu của doanh nghiệp là chiến lược ngân sách thấp, thì thường doanh nghiệp sẽ lựa chọn mô hình Offshore hoặc Nearshore.
Các nguồn đáp ứng trong nước nên tập trung vào các sản phẩm có mức giá trị cao với nhu cầu biến động lớn, trong lúc các nguồn ngoài nước giá rẻ nên tập trung vào các sản phẩm có mức giá trị thấp hơn, khối lượng lớn với hàm lượng lao động cao.

Trung Quốc và các khu vực khác của châu Á là các nguồn cung cấp cấp nước ngoài phổ thông trong hai thập kỷ từ 1990 đến 2010. Tuy nhiên, một số xu hướng đang diễn ra hiện nay đang làm các nhà quản lý Mỹ phải suy nghĩ lại về lựa chọn mô hình Offshore. Sự thay đổi về tiền lương của Trung Quốc và đồng nhân dân tệ mạnh lên, cả hai yếu tố này đều làm giảm lợi thế về ngân sách lao động của Trung Quốc, nhất là khi so sánh với những nước láng giềng như Mexico. Ngoài ra, sự tăng đều giá dầu và ngân sách vận chuyển đóng vai trò giống như một hàng rào thuế quan khiến cho mô hình Offshore có phần kém quyến rũ hơn. Cuối cùng, sự tăng đều biến động từ cuộc chiến tranh thương nghiệp Mỹ – Trung và nhu cầu giảm thiểu rủi ro đã và đang khuyến khích các nhà thiết kế chuỗi cung ứng có xu hướng dịch chuyển nguồn cung cấp từ Offshore sang lựa chọn các nguồn bổ sung Nearshore hoặc Onshore.
Minh Ngô
Các loại mô hình phân phối trong chuỗi cung ứng (Phần 1)