Nhận thức là gì? Các giai đoạn nhận thức? Lấy ví dụ minh họa?

Trên thực tế, quá trình nhận thức sử dụng kiến ​​thức hiện có và khám phá kiến ​​thức mới. Các quá trình nhận thức được phân tích từ các khía cạnh khác nhau trong các toàn cảnh khác nhau, nhất là trong các nghành nghề dịch vụ tiếng nói học, âm nhạc học, gây mê, khoa học thần kinh, thần kinh học, tâm lý học, giáo dục, triết học, nhân chủng học, sinh vật học, khối hệ thống học, logic và khoa học máy tính. Những cách tiếp cận này và những phương pháp tiếp cận khác để phân tích nhận thức (ví như nhận thức thể hiện) được tổng hợp trong nghành nghề dịch vụ khoa học nhận thức đang phát triển, một ngành học tự chủ tiến bộ. Vây nhận thức là gì? Các thời đoạn nhận thức? Lấy ví dụ minh họa?

Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài Smartphone: 1900.6568

1. Nhận thức là gì?

Nhận thức là trạng thái có ý thức về một chiếc gì đó. Cụ thể hơn, đó là khả năng trực tiếp biết và nhận thức, cảm nhận hoặc nhận thức được những sự kiện. Một khái niệm khác mô tả nó là trạng thái trong đó chủ thể nhận thức được một số thông tin khi thông tin đó trực tiếp có sẵn để thực hiện theo vị trí hướng của một loạt các hành động. Khái niệm thường đồng nghĩa với ý thức và cũng được hiểu là bản thân ý thức.

Các trạng thái của nhận thức cũng được liên kết với những trạng thái của kinh nghiệm do đó cấu trúc được biểu thị trong nhận thức được phản ánh trong cấu trúc của kinh nghiệm.

Theo “Từ vựng Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của việc phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng nghỉ tiến đến gần khách thể.

Theo ý kiến triết học Mac-Lenin, nhận thức được khái niệm là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.

Nhận thức là một khái niệm tương đối. Nó có thể tập trung vào trong 1 trạng thái bên trong, ví như cảm giác nội tạng, hoặc vào các sự kiện phía bên ngoài bằng phương pháp nhận thức cảm tính. Nó tương tự như cảm nhận một chiếc gì đó, một quá trình phân biệt với quan sát và nhận thức (gồm có một quá trình cơ bản làm quen với những mục mà tất cả chúng ta nhận thức được). Nhận thức hoặc “cảm nhận” có thể được mô tả là một chiếc gì đó xẩy ra khi não được kích hoạt theo những cách nhất định, ví như khi red color là những gì được nhìn thấy sau lúc võng mạc được kích thích bởi sóng ánh sáng. Việc hình thành khái niệm này được nêu ra trong toàn cảnh khó khăn trong việc phát triển một khái niệm phân tích về nhận thức hoặc nhận thức cảm tính.

Nhận thức cũng được liên kết với ý thức theo tức là khái niệm này biểu thị một kinh nghiệm cơ bản như cảm giác hoặc trực quan đi kèm với kinh nghiệm về hiện tượng kỳ lạ. Cụ thể, điều này được gọi là nhận thức về kinh nghiệm. So với ý thức, nó đã được mặc định là phải trải qua các Lever thay đổi liên tục.

Điều quan trọng cần nhớ là các quá trình nhận thức này rất phức tạp và thường không hoàn hảo. Một số yếu tố có thể tác động ảnh hưởng hoặc tác động ảnh hưởng đến nhận thức gồm có:

– Tuổi tác

Nghiên cứu chỉ ra rằng khi tất cả chúng ta già đi, chức năng nhận thức của tất cả chúng ta có xu hướng suy giảm.6 Những thay đổi về nhận thức liên quan đến tuổi tác gồm có xử lý mọi thứ chậm hơn, khó nhớ lại các sự kiện trong quá khứ và không nhớ được thông tin đã từng biết (ví như cách xử lý một phương trình toán học cụ thể hoặc thông tin lịch sử vẻ vang).

– Các vấn đề về việc lưu ý

Sự lưu ý có chọn lựa là một nguồn lực hạn chế, vì vậy có một số điều có thể khiến bạn khó tập trung vào mọi thứ trong môi trường thiên nhiên của bạn. Ví dụ, chớp mắt có chủ ý xẩy ra khi chúng ta quá tập trung vào trong 1 việc đến nỗi bạn hoàn toàn bỏ lỡ điều gì đó khác đang xẩy ra ngay trước mặt bạn.

– Những thành kiến ​​về nhận thức

Thành kiến ​​nhận thức là những sơ sót có khối hệ thống trong suy nghĩ liên quan đến cách con người xử lý và giảng giải thông tin về thế giới. Thành kiến ​​xác nhận là một ví dụ phổ thông liên quan đến việc chỉ lưu ý đến thông tin phù phù hợp với niềm tin hiện có của bạn trong những khi bỏ qua bằng cớ không ủng hộ ý kiến của bạn.

– Di truyền học

Một số nghiên cứu đã kết nối chức năng nhận thức với một số gen nhất định. Ví dụ, một nghiên cứu năm 2020 được công bố trên Brain Communications cho thấy mức độ yếu tố dinh dưỡng thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF) của một người, được xác định 30% theo hệ số di truyền, có thể tác động đến tốc độ thoái hóa thần kinh não, một xét tuyển tác động cuối cùng đến chức năng nhận thức.

– Giới hạn bộ nhớ

Trí tưởng ngắn hạn ngắn một cách đáng ngạc nhiên, thường chỉ nối dài từ 20 đến 30 giây, 8 trong những khi trí tưởng dài hạn có thể ổn định và lâu dài, với những ký ức nối dài thường niên và thậm chí còn hàng thập kỷ. Trí tưởng cũng tồn tại thể mỏng manh và dễ sai lệch. Thỉnh thoảng tất cả chúng ta quên và những lần khác, tất cả chúng ta phải chịu những tác động của thông tin sai lệch, thậm chí còn có thể dẫn đến hình thành những ký ức sai trái.

2. Các thời đoạn nhận thức:

Nhận thức là một thuật ngữ đề cập tới những quá trình ý thức liên quan đến việc đạt được kiến ​​thức và hiểu biết. Một số trong nhiều quá trình nhận thức khác nhau gồm có tư duy, hiểu biết, ghi nhớ, suy đoán và xử lý vấn đề. Đây là những chức năng cấp cao hơn nữa của não và gồm có tiếng nói, trí tưởng tượng, nhận thức và lập kế hoạch. Tâm lý học nhận thức là nghành nghề dịch vụ tâm lý học nghiên cứu cách mọi người suy nghĩ và các quá trình liên quan đến nhận thức.

Phương pháp tiếp cận nghiên cứu tâm trí của Plato nhận định rằng con người hiểu thế giới bằng phương pháp xác định những nguyên tắc cơ bản nằm sâu bên trong bản thân, sau đó sử dụng tư duy lý trí để tạo ra tri thức. Ý kiến này sau này được các triết nhân như Rene Descartes và nhà tiếng nói học Noam Chomsky ủng hộ. Nó thường được gọi là chủ nghĩa duy lý.2

Mặt khác, Aristotle tin rằng con người thu nhận kiến ​​thức thông qua quan sát của họ về thế giới xung quanh. Các nhà tư tưởng sau này như John Locke và B.F. Skinner cũng ủng hộ ý kiến này, thường được gọi là chủ nghĩa kinh nghiệm.

Trong những ngày trước hết của tâm lý học – và trong nửa vào đầu thế kỷ 20 – tâm lý học phần lớn bị chi phối bởi phân tâm học, chủ nghĩa hành vi và chủ nghĩa nhân văn.

Cuối cùng, một nghành nghề dịch vụ nghiên cứu chính thức chỉ dành riêng cho việc nghiên cứu nhận thức đã xuất hiện như một phần của “cuộc cách mệnh nhận thức” vào trong thời gian 1960. Nghành nghề này được gọi là tâm lý học nhận thức.

Một trong những khái niệm sớm nhất về nhận thức đã được trình bày trong cuốn sách giáo khoa trước hết về tâm lý học nhận thức, được xuất bản vào năm 1967. Theo Ulric Neisser, một nhà tâm lý học và tác giả cuốn sách, nhận thức là “những quá trình mà nguồn vào của giác quan được chuyển đổi, giảm bớt, xây dựng, lưu trữ, phục hồi và sử dụng. “

Địa thế căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành 2 thời đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.

Thời đoạn 1: Nhận thức cảm tính

Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:

Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các tính chất riêng lẻ của khá nhiều sự vật, hiện tượng kỳ lạ khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của việc chuyển hoá những năng lượng kích thích từ phía bên ngoài thành yếu tố ý thức.

Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự việc tổng hợp các cảm giác.

Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan.

Thời đoạn 2: Nhận thức lý tính

Các hình thức của nhận thức lý tính gồm có:

Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính thực chất của việc vật. Sự ra đời khái niệm là kết quả của việc tổng thể, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, tính chất của việc vật hay lớp sự vật.

Suy đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một tính chất của đối tượng người sử dụng.

Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các suy đoán lại với nhau để rút ra một suy đoán có tính chất tóm lại tìm ra tri thức mới.

Đặc điểm của nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp khi đối chiếu với sự vật, hiện tượng kỳ lạ song song cũng là quá trình đi sâu vào thực chất của việc vật, hiện tượng kỳ lạ.

Về cơ bản nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không sở hữu và nhận thức được thực chất thật sự của việc vật.

Thời đoạn 3: Nhận thức trở về thực tiễn

Nhận thức trở về thực tiễn được hiểu là tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói một cách dễ hiểu thì thực tiễn là một trong các thời đoạn của quá trình nhận thức có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận được thức được. Vì vậy, thực tiễn là tiêu chuẩn của lý lẽ, cơ sở động lực, muc đích của nhận thức. Mục tiêu cuối cùng của nhận thức không chỉ để giảng giải và cải tạo thế giới mà còn tồn tại chức năng định hướng thực tiễn.

3. Lấy ví dụ minh họa về nhận thức, quá trình nhận thức:

Có nhiều loại quá trình nhận thức khác nhau. Chúng gồm có:

– Lưu ý: Lưu ý là một quá trình nhận thức được chấp nhận mọi người tập trung vào trong 1 kích thích cụ thể trong môi trường thiên nhiên.

– Tiếng nói: Tiếng nói và phát triển tiếng nói là quá trình nhận thức liên quan đến khả năng hiểu và diễn đạt suy nghĩ thông qua lời nói và chữ viết. Điều này được chấp nhận tất cả chúng ta giao tiếp với những người dân khác và đóng một vai trò quan trọng trong suy nghĩ.

– Học tập: Học tập yên cầu các quá trình nhận thức liên quan đến việc tiếp nhận những điều mới, tổng hợp thông tin và tích hợp nó với kiến ​​thức trước đó.

– Trí tưởng: Trí tưởng là một quá trình nhận thức quan trọng được chấp nhận con người mã hóa, lưu trữ và truy xuất thông tin. Nó là một thành phần quan trọng trong quá trình học tập và được chấp nhận mọi người lưu giữ kiến ​​thức về thế giới và lịch sử vẻ vang member của họ.

– Nhận thức: Nhận thức là một quá trình nhận thức được chấp nhận con người tiếp nhận thông tin thông qua các giác quan của họ, sau đó sử dụng thông tin này để phản hồi và tương tác với thế giới.

– Tư tưởng: Tư tưởng là một phần thế tất của mọi quá trình nhận thức. Nó được chấp nhận mọi người tham gia vào quá trình ra quyết định, xử lý vấn đề và lập luận cao hơn nữa.

You May Also Like

About the Author: v1000