‘Ngậm ngải tìm trầm’

‘Ngậm ngải tìm trầm‘ và những ‘luật bất thành văn khi được hưởng ‘lộc rừng’ Có những người dân bỏ cả cuộc đời để đi tìm trầm với mộng “đổi đời” nhưng rồi lại thiệt mạng nơi rừng thiêng nước độc. Có những phu trầm “trúng mánh” được số tiền đến vài chục tỷ vnđ, nhưng cũng không giữ được lâu. Từ bao đời nay trong thế giới của những người dân phu trầm vẫn truyền tai nhau những mẩu chuyện về Nữ thần Thiên Y A Na – “Bà chúa trầm hương”. Kẻ nào được “hưởng lộc” của Nữ thần mà phạm vào những điều cấm kỵ thì dù có đang là tỉ phú thì cũng sớm “mất lộc” và rơi vào cảnh trắng tay…

Sau thời điểm thực hiện các nghi lễ cúng “thần rừng”, người Bầu trưởng phân công nhiệm vụ cho từng người trong đoàn tiến hành tỏa ra đi tìm trầm hương. Mỗi người được chỉ định những khu vực khác nhau, khi phát hiện có trầm thì sẽ thông tin cho Bầu trưởng. Tuy nhiên công việc tìm trầm như “mò kim đáy bể” và không thiếu những gieo neo…

Ngậm ngải tìm trầm

Trong giới phu trầm thường truyền tai nhau câu cửa mồm “ngậm ngải tìm trầm”, câu nói này xuất phát từ một truyền thuyết được lưu truyền từ thuở xa xưa của những người dân đi khai thác “giọt máu rừng”. Câu truyện về “người hóa cọp” như một trong những minh chứng cho việc gieo neo đời trầm phu.

Nhấp một ngụm trà nóng, ông Nguyễn Câu (SN 1948, tên thường gọi là Bốn Câu, một người dân có thâm niên trong nghề trầm ở thôn Phú Cang 2) kể cho chúng tôi nghe về truyền thuyết đó. “Thuở xa xưa có một trầm phu lang thang từ núi này sang núi nọ để đi tìm trầm hương quý. Trước lúc lên đường, người trầm phu này nhiều hơn thế nữa gặp một thầy mo cao thâm trong làng để xin một lá bùa may mắn. Sau thời điểm làm phép xong, thầy mo trao cho chàng thanh niên một viên thuốc và dặn dò: Chỉ có ngậm thuốc này thì có đi bao nhiêu ngày cũng không thấy đói, thấy khát, có lạc vào rừng sâu núi cao thì cũng không sợ hùm beo làm hại. Người phu trầm nhận lấy viên thuốc xong, cảm tạ thầy mo rồi khăn gói lên lối đi tìm trầm hương. Ngày qua ngày băng rừng lội suối nhưng mãi vẫn không tìm thấy gì, trong những lúc đó lương thực mang theo cũng dần hết sạch. Lúc này người trầm phu định xoay đầu về lại quê hương, nhưng ngặt nỗi không nhớ đường về. Nhớ lời thầy mo, chàng lấy viên thuốc ngải ngậm vào mồm và tiếp tục đi vào rừng. Rồi năm tháng dần qua, viên ngải trong mồm cũng dần tan hết và người phu trầm không ngờ mình lại hóa thành con hổ mình đầy lông lá”, giọng ông Câu trầm ngâm như một già làng đang kể sử thi.

Theo như ông Câu giảng giải, thực ra đó chỉ là một truyền thuyết truyền tai trong giới đi “địu” (tìm trầm) để chỉ sự gieo neo của bạn bè trầm phu, chứ thực ra hiện nay cách người ta dùng “ngải” cũng khác rồi. Trước phóng thích thì có nhiều còn mê tín dị đoan dị đoan nên trước lúc đi rừng thường đến nhà những thầy mo trong làng để xin một lá bùa hộ mệnh, thường gọi là “ngải”. Vì dân phu trầm trước kia rất tín ngưỡng nên thường xin bùa để cầu may, có người còn nhận định rằng khi đeo bùa của những thầy mo thì thú dữ không dám đến gần. Tuy nhiên hiện nay thì tân tiến rồi, dân đi rừng xem ngải là một loại thuốc quý, mang theo để phòng thân trong những chuyến hành trình dài ngày. Ngải cũng như một loại cây thuộc họ gừng, dân “địu” thường mang theo trong người để phòng khi trái gió trở trời.

Những phu trầm trung bình một ngày có thể đi 20-30km đường rừng, phải đối mặt với biết bao nguy hiểm nên việc sẵn sàng chuẩn bị cho chuyến hành trình dài ngày rất cẩn thận cũng là chuyện thường nhật. Ngoài thức ăn, nước uống là những thứ nhu yếu thì nên cần phải mang theo thuốc thang để phòng khi gặp nạn. Do sống trong rừng sâu, những phu trầm thường truyền tai nhau những bài thuốc quý, thường gọi là “ngải”. Ví như những bài thuốc liên quan đến cây ngải cứu dùng làm chữa bệnh đau khớp, bong gân. “Dù thế nào đi nữa, thì “ngậm ngải tìm trầm” là một câu cửa mồm dùng làm chỉ những gieo neo, vất vả của những phu trầm, chứ không có chuyện phù chú mê tín dị đoan dị đoan như những người dân ngoài suy đoán”, ông Câu nhấn mạnh vấn đề.

C002

“Luật bất thành văn” của giới phu trầm

Khi đối chiếu với dân đi trầm, chuyện sống chết thường chỉ trong tấc gang, những nguy hiểm luôn rình rập, nên chỉ có thể có một cách duy nhất để tồn tại được trong chốn rừng thiêng nước độc, đó đây là sự kết đoàn. Dân “địu” thường tập trung từ 6-15 người một nhóm, mỗi nhóm đều cử ra một Bầu trưởng để điều hành cả nhóm. Việc chọn Bầu trưởng cũng đều có những yêu cầu khôn xiết khe khắt về lễ thức, kinh nghiệm, nhưng quan trọng nhất Bầu trưởng phải là người tạo nên sự thống nhất và lòng kết đoàn của rất nhiều phu trầm trong nhóm. Kết đoàn, như một luật tục bất thành văn khi đối chiếu với dân phu trầm ở chốn đại ngàn.

Trong một nhóm đi trầm với nhau, thường thì những phu trầm có quan hệ họ hàng hoặc cùng một địa phương với nhau nên dễ dàng san sớt và bảo vệ nhau trước những nguy hiểm trong cái nghề đi tìm “giọt máu rừng”. Do không thể một sớm một chiều có thể tìm thấy được trầm nên việc phân công nhau đi tìm trầm và lo việc ăn uống khôn xiết rẽ ròi. Khi một người phu trầm may mắn phát hiện được “hàng” thì phải ngây tức thời thông tin với Bầu trưởng, Bầu trưởng có nhiệm vụ thực hiện các nghi tiết và phân chia nhiệm vụ cho từng người để đảm bảo việc khai thác được tiến hành nhanh nhất. Hơn nữa, trong giới trầm phu thì việc phân chia lợi nhuận được thỏa thuận hợp tác trước. Ví như nhóm có 10 người thì sau khoản thời gian khai thác được trầm sẽ chia ra thành 10 phần, và tất nhiên người phát hiện sẽ tiến hành phần nhiều hơn. Chính vì những thỏa thuận hợp tác trước này đã làm cho những phu trầm trong đoàn yên tâm và kết đoàn hơn.

Ngồi nghe ông Câu kể chuyện, ông luôn khẳng định việc trúng kỳ nam là vì may mắn, chứ không có ai biết trước là “Bà chúa” sẽ cho lộc về người nào. Cũng vì thế, nên với bất kỳ dân phu trầm nào trúng được “lộc ông lộc bà” thì nhất định không bao giờ được có ý nghĩđộc chiếm mà phải để dành một ít cho những người dân sau được “hưởng trẹo”. Cũng theo như ông Câu đã cho chúng ta biết, từ xưa đến này hễ ai ở trong thôn trúng được kỳ nam thì dân làng cũng nhiều người cũng được hưởng theo. Tiêu biểu tiên tiến nhất đây là vụ cha con ông Ân trúng kì nam ở An Khê (tỉnh Gia Lai) thì cũng để lại một phần rồi sau đó thông tin cho bạn bè trong thôn đi lên đó để hưởng “lộc rừng” cùng với mình. Từ đó, cha con ông Ân trúng được gần 20 tỉ thì trong làng này còn có hơn 100 người “hưởng trẹo”, mỗi người được trên dưới 500 triệu VND. Hay cách đó khoảng chừng hơn chục năm, trong thôn Phú Cang 2 này cũng đều có gia đình nhà ông Nguyễn Hữu Chinh (SN 1955) đang làm nghề đốt than ở vùng rừng núi Núi Lửa (tỉnh Đắk Lắk) thì may mắn được “người khuất mặt” dẫn đến chỗ có kỳ nam và cũng trong đêm đó 2 cha con ông trúng gần 10 tỉ, sau đó báo cho những người dân trong thôn lên để “mót” và tùy từng nhóm người lên trước lên sau mà trúng nhiều hay ít, nhưng người “bọt bèo” nhất cũng được cả trăm triệu VND.

“Dù trúng tiền ít hay trúng nhiều, nhưng bất kì ai sau khoản thời gian đươc trúng “lộc rừng” thì sau này đều phải bỏ một ít ra làm từ thiện, cứu giúp những trường hợp nghèo khổ trong thôn. Theo như quan niệm của dân “địu” thì những người dân may mắn trúng được trầm đều là vì “Bà Chúa” ban phước. Khi nhận được ơn huệ này, những người dân hưởng lộc phải ghi nhận viện trợ những người dân khác thoát khỏi cánh đói khát, nếu không thì sẽ bị “Bà chúa” quở phạt và lấy hết lại số tiền đã ban cho. Trong trong những năm qua, những người dân trúng trầm đều không quên điều này. Ví như trong chuyến trúng tiền tỉ vừa rồi, gia đình ông Ân đã chi 15 triệu VND để xây dựng mạng lưới hệ thống cấp nước sinh hoạt cho học trò trường tiểu học xã Vạn Phú, chi 15 triệu VND để lợp mái tôn cho trường mẫu giáo Vạn Phú 2, song song 2 cha con ông đã ném tiền trợ cấp cho từng thôn 1 tấn gạo. Ngoài ra những người dân trúng số tiền thấp hơn cũng chi một phần ra để viện trợ những hộ nghèo, những người dân già lão neo đơn, những gia đình có có người bị đau ốm đau ốm”, ông Quang đãng (Trưởng thôn Phú Cang 2) san sớt.

(VB-Theo Xahoi.com.vn )

You May Also Like

About the Author: v1000