Khoang miệng: Gồm những cấu trúc nào và đóng vai trò ra sao?

Chúng tôi rất vui mừng được chia sẻ kiến thức sâu sắc về từ khóa Mieng la gi và hi vọng rằng nó sẽ hữu ích cho các bạn đọc. Bài viết tập trung trình bày ý nghĩa, vai trò và ứng dụng của từ khóa trong việc tối ưu hóa nội dung trang web và chiến dịch tiếp thị trực tuyến. Chúng tôi cung cấp các phương pháp tìm kiếm, phân tích và chọn lọc từ khóa phù hợp, kèm theo các chiến lược và công cụ hữu ích. Hi vọng rằng thông tin chúng tôi chia sẻ sẽ giúp bạn xây dựng chiến lược thành công và thu hút lưu lượng người dùng. Cảm ơn sự quan tâm và hãy tiếp tục theo dõi blog của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhất.

Khi tất cả chúng ta nói đến “mồm”, tức thị đang đề cập đến “khoang mồm”. Khoang mồm là nơi khai mạc của ống tiêu hóa, nơi thông thương giữa bên trong và phía ngoài thân thể. Do đó, khoang mồm và các cấu trúc phẫu thuật bên trong đóng vai trò quan trọng khi đối chiếu với thân thể tất cả chúng ta. Khoang mồm gồm có: môi, má, răng, nướu, khẩu cái mềm và cứng, lưỡi, amidan và tuyến nước miếng. Những cấu trúc mồm này được cho phép tất cả chúng ta thực hiện những hoạt động sinh hoạt chức năng như: ăn , uống, thở, phát âm.

Bạn Đang Xem: Khoang miệng: Gồm những cấu trúc nào và đóng vai trò ra sao?

Vị trí và kết cấu khoang mồm

Khoang mồm nằm ở phía trước trên của mặt, dưới khoang mũi. Nó được giới hạn bởi:

  • Môi, má ở phía trước( ngoài) và phía bên.
  • Khẩu cái ở phía trên
  • Sàn mồm ở phía dưới
  • Yết hầu ở phía sau(trong) ăn thông với khoang mồm.

Khoang mồm mở ra mặt thông qua khe mồm. Trong lúc phía sau khoang mồm thông với hầu họng thông qua một lối đi hẹp gọi là eo hầu họng, được xung quanh bởi vòm mồm mềm và vòm hầu.

Một số xương đóng góp vào khuông hình thành khoang mồm. Gồm có các xương hàm trên, xương khẩu cái và xương thái dương được ghép nối với nhau. Các xương bướm và xương móng đơn độc.

Cung răng phân chia khoang mồm thành 2 khu vực:

  • Ngoài cung răng là hành lang mồm (tiền đình mồm)
  • Trong cung răng là xoang mồm chính.

Bên trong khoang mồm liên tục được bôi trơn bởi các tuyến nước miếng cũng tham gia vào quá trình tiêu hóa thức ăn bằng phương pháp tiết ra các enzyme khai mạc quá trình tiêu hóa carbohydrate. Các tuyến này là các tuyến mang tai, dưới hàm và dưới lưỡi.

Các đặc điểm phẫu thuật trong khoang mồm

Môi

Được kết cấu bởi mô cơ và mô tuyến, phủ phía ngoài là da và bên trong là niêm mạc.

Môi trên đụng đến đáy mũi và tiếp giáp với vùng má qua “rãnh môi má mũi”. Rãnh này xuất phát từ cánh mũi chạy xuống dưới và ra phía ngoài đến tận cùng gần khóe mép.

Ở người trẻ, môi dưới và má không có đường phân chia rõ ràng. Ở người già thì có rãnh bờ môi đi từ khóe mép vòng xuống dưới gần đến bờ xương hàm dưới. Môi dưới tiếp giáp với vùng cằm qua rãnh môi cằm.

Kết cấu môi

Môi trên và môi dưới tiếp giáp nhau ở phía 2 bên góc mồm. Nơi đó thấy có một nếp gấp mỏng khi trong miệng được ngậm , đó là Khóe mép. Khóe mép thường ở vị trí tương ứng răng nanh.

Ở môi có sự chuyển tiếp da của da phía ngoài và niêm mạc. Vùng chuyển tiếp red color gọi là vành môi. Ngay trung điểm vành môi trên phồng lên tạo củ môi. Từ củ môi, một rãnh rộng nhưng cạn chạy thẳng lên đáy mũi, đó là nhân trung. Ở trung tâm vành môi dưới thỉnh thoảng có một rãnh mờ gọi là rãnh môi cằm.

Phần di động của má được cấu tao bởi: cơ mút, mô mỡ (cục mỡ Bichat). Má được phủ phía ngoài là da và bên trong là niêm mạc má. Niêm mạc má mày hồng nhạt và nhẵn mịn, phía trên và dưới niêm mạc má gập lại để tiếp giáp với niêm mạc xương ổ răng tạo đáy hành lạng mồm ở phía sau. Ở phía trước, niêm mạc má liên tục với niêm mạc môi. Giới hạn sau của niêm mạc má là một nếp gấp của niêm mạc đi từ niêm mạc má phía trên và sau cung răng trên phía sau cung răng dưới. Nếp gấp này do đường đan chân bướm hàm đội lên.

Thường trên niêm mạc má nổi lên một đường trắng do sự in dấu của mặt nhai các răng cối. Đó là đường nhai. Ở phía sau niêm mạc má, nơi tương ứng với cổ răng 6 hàm trên, có một nốt nhỏ gọi là gai ống stenon hay gai mang tai. Đó là nơi ống stenon mở ra trong mồm.

Lỗ ống tuyến nước miếng mang tai

Đáy hành lang

Trên phố giữa hàm trên và hàm dưới có nếp gấp niêm mạc tiếp nối với niêm mạc xương ổ răng với môi. Các nếp gấp này hình lưỡi liềm, có độ dày mỏng, dài ngắn thay đổi từng người. Đó là hai thắng môi giữa trên và dưới. Thắng môi trên to và dày hơn thắng môi dưới.

Ở hai bên vùng răng nanh và răng cối nhỏ trên, dưới, cũng luôn tồn tại những nếp gấp tương tự. Chúng gọi là thắng bên. Thường thì thắng bên hàm dưới to và dày hơn ở hàm trên.

Khoang mồm

Răng, niêm mạc nướu răng và xương ổ

  • Răng

Xem Thêm : Review Inner Gel Hàn Quốc – Đây Có Là Giải Pháp Chăm Sóc Vùng Kín Của Chị Em Phụ Nữ?

Trong cuộc đời của mỗi người sẽ trải qua 2 hệ răng: răng sữa và răng vĩnh viễn.

Răng sữa gồm 20 chiếc: 8 răng cửa sữa, 4 răng nanh sữa, 8 răng cối sữa. Bộ răng sữa được hoàn thiện vào năm 3 tuổi. Xuất phát điểm từ 6 tuổi, các răng sữa sẽ dần dần rụng đi và được thay thế bởi răng vĩnh viễn.

Thông thường, một người trưởng thành có 32 răng vĩnh viễn, mỗi hàm 16 cái. Chúng được chia thành bốn góc phần tư với 8 răng mỗi phần: 2 răng cửa, 1 răng nanh 2 răng cối nhỏ và 3 răng cối lớn tạo thành một góc phần tư.

Mỗi răng nằm trong một ổ răng và được giữ ở vị trí nhờ dây chằng nha chu. Răng gồm có: men răng, ngà răng , tủy răng. Mặt phẳng chân răng không có men che phủ, thay vào đó là xê măng.

Men – đây là phần phía ngoài và là mô khoáng cứng nhất trong thân thể. Men có thể bị hư hỏng do sâu răng nếu không được chăm sóc đúng cách.

Ngà răng – đây là lớp dưới men răng. Nếu sâu răng đi qua men răng, sẽ tiến công ngà răng – nơi hàng triệu ống ngà nhỏ dẫn trực tiếp vào tủy răng.

Tủy răng – đây là mô mềm được tìm thấy ở trung tâm của tất cả những răng. Tủy răng chứa mô thần kinh và mạch máu. Nếu sâu răng đến tủy, bạn thường cảm thấy đau và có thể phải làm thủ thuật lấy tủy.

  • Niêm mạc xương ổ răng

Niêm mạc xương ổ mỏng, nhẵn mịn, red color sậm, ôm sát theo những lồi lõm chân răng tạo ra ở mặt bằng xương ổ. Chúng có thể di động được so với mặt bằng xương này.

  • Niêm mạc nướu răng

Niêm mạc nướu bám sát theo những cổ răng, dày và săn chắc hơn niêm mạc xương ổ. Chúng có màu hồng nhạt và có lấm tấm da cam. Nướu dính chặt vào răng và xương phía bên dưới trừ ở đường viền nướu tự do rất mỏng (1-2 mm). Đây được gọi là nướu rời, để phân biệt với phần còn sót lại là nướu dính.

Bờ tự do của nướu nhọn lên tạo gai nướu. Đường tiếp giáp giữa niêm mạc xương ổ răng và nướu là một đường uốn khúc song song với bờ nướu và cách 4mm. Phía sau cung răng dưới, niêm mạc xương ổ phủ lên tam giác hậu hàm. Phía sau cung răng trên, niêm mạc xương ổ phủ lên lồi cùng.

Khẩu cái

Vòm khẩu cái tạo thành trần của xoang mồm chính. Khẩu cái có hình vòm cung và gồm hai phần:

  • Vòm cứng: tấm ngang xương khẩu cái
  • Vòm mềm hay màng khẩu cái

Niêm mạc khẩu cái cứng dày màu hồng nhạt, dính chặt vào mặt bằng xương phía bên dưới. Trên phố giữa ngay phía sau hai răng cửa giữa nổi lên một u thịt hình thuẫn gọi là gai khẩu hay gai cửa. Từ gai cửa, một nếp gấp niêm mạc thấp và hẹp chạy ra sau gọi là đường đan giữa khẩu cái. Từ đường này tỏa ra những nếp gấp ngang gọi là vân khẩu cái.

Khẩu cái

Nhìn kỹ niêm mạc khẩu cái có những lỗ nhỏ lí tí có lúc còn đọng những giọt nước miếng. Đó là những lỗ của không ít ống dẫn tuyến nước miếng phụ khẩu cái.

Niêm mạc khẩu cái mềm red color sậm, mỏng và mịn gần đường tiếp giáp vòm cứng. Bờ tự do của khẩu cái mềm ở giữa tạo thành lưỡi gà. Ở hai bên thì chẻ đôi tạo thành hai trụ hầu. Trụ trước còn gọi là cung khẩu lưỡi. Trụ sau là cung khẩu hầu. Giữa hai trụ là một hốc hình tam giác chứa hạch hạnh nhân. Phần xuống của màng hầu và 2 trụ hầu tạo thành eo hầu. Thông qua đó khoang mồm ăn thông với khẩu hầu.

Lưỡi

Lưỡi có một phần di động và một phần nhất quyết gọi là đáy lưỡi. Mặt trên lưỡi hay sườn lưng lưỡi được phủ lớp niêm mạc sần sùi hồng nhạt. Mặt này được chia là 2 phần bởi một dãy 8 hay 9 gai vị giác (gai đài) xếp thành chữ V có đỉnh quay vào trong (V lưỡi). Phía trước sườn lưng lưỡi có 3 loại gai vị giác:

  • Gai chỉ: Rất nhỏ, mỏng như sợi chỉ white color
  • Nấm: tròn, red color tươi nằm lộn lạo gai chỉ
  • Lá: nằm ở phía 2 bên bờ lưỡi phía sau, tạo ra những nếp gấp không đều, song song với nhau.

Niêm mạc lưỡi có nhiều nốt lympho hình tròn, gọi là amidan lưỡi. Mặt dưới lưỡi hay bụng lưỡi được phủ một lớp niêm mạc mỏng. Trên phố giữa có một nếp gấp niêm mạc gắn liền với sàn mồm. Đó là thắng lưỡi. Ở hai bên thắng, có thể thấy 2 u thịt do cơ cằm lưỡi đội lên. Trên đó là 2 nếp gấp niêm mạc rất mỏng. Ngoài ra còn tồn tại thể thấy các tĩnh mạch dưới lưỡi chạy ngoằn ngoèo hai bên bụng lưỡi.

Cấu trúc lưỡi

Sàn mồm

Xem Thêm : TRAP GIRL, TRAP BOY LÀ GÌ? GIẢI MÃ “TIẾNG LÓNG” CỦA GEN Z TRÊN FACEBOOK

Sàn mồm có hình móng ngựa, ở dưới đầu lưỡi phía trước và ở hai bên của đáy lưỡi. Do này còn gọi là rãnh dưới lưỡi. Ở đường giữa có thắng lưỡi. Hai bên thắng lưỡi là tuyến dưới lưỡi, đội lên thành hai dãy dưới lưỡi. Trên mặt bằng dãy dưới lưỡi có những ống dấn phụ (hay ống Rivinus) của tuyến dưới lưỡi mở ra trong mồm. Dãy dưới lưỡi tận cùng ở gần chỗ thắng lưỡi gắn vào sàn mồm, có một gai nhỏ gọi là gai dưới lưỡi. Đó là nơi ổng Wharton của tuyến dưới hàm và có khi ống Bartholin của tuyến dưới lưỡi mở ra trong mồm.

Sàn mồm

Tuyến nước miếng

Có ba cặp tuyến nước miếng chính gồm có: tuyến dưới lưỡi, tuyến dưới hàm và tuyến mang tai.

Tuyến mang tai là tuyến lớn số 1 trong số các tuyến nước miếng. Tuyến mang tai là tuyến nước miếng tiết thanh dịch. Ống tiết là ống Stenon, chạy ở mặt ngoài cơ cắn, đổ vào mồm ở mặt trong má tương ứng vị trí răng số 6,7 hàm trên.

Tuyến dưới lưỡi là tuyến nước miếng nhỏ nhất và nằm dưới lưỡi, trên cơ hoành. Tuyến dưới lưỡi: gồm có rất nhiều tuyến nhỏ, là tuyến nước miếng hỗn hợp. Các ống dưới lưỡi chính kết thúc ở phần dưới lưỡi và bắt nguồn từ phần trước của tuyến. Các ống dẫn dưới lưỡi ngắn lại hơn nữa dẫn đến sàn khoang mồm.

Tuyến dưới hàm nằm trong lòng cơ hai bên, trong tam giác dưới hàm. Tuyến dưới hàm: là tuyến nước miếng hỗn hợp, ống tiết là ống Wharton.

Sinh lý của tuyến nước miếng

Các tuyến nước miếng sinh sản 0,5 – 1,5 lít nước miếng mỗi ngày. Nước miếng có chứa các enzyme đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu hóa và bôi trơn khoang mồm để tạo tham gia cho thức ăn nuốt vào. Nước miếng do tuyến nước miếng tiết ra mỏng và chứa rất nhiều enzyme tiêu hóa.

Tuyến mang tai là một tuyến thanh dịch. Các tuyến nhầy tiết ra một chất lỏng nhầy nhụa với độ nhớt cao. Sự tiết chất nhầy rất giàu glycoprotein. Cả hai tế bào tuyến thanh dịch và nhầy đều phải có mặt trong các tuyến dưới lưỡi và dưới hàm.

Enzyme tiêu hóa alpha-amylase được tìm thấy trong nước miếng. Nó thủy phân các liên kết 1,4-glycosid trong tinh bột. Enzim hoạt động mạnh nhất ở pH 6,9. Tuy nhiên, không hoạt động trong dạ dày do độ pH cực kỳ axit. Ngoài ra, nước miếng có chứa globulin miễn nhiễm, nhất là IgA, cũng như các chất điện giải như natri, kali, clorua và các chất khác.

Khối hệ thống bạch huyết của khoang mồm

Các quá trình thở và ăn liên tục vận chuyển vi trùng vào thân thể. Hầu họng là một trong những điểm xâm nhập của vi trùng vào thân thể và được xung quanh bởi các mô bạch huyết dưới dạng amidan. Được gọi là vòng amidan Waldeyer. Amidan đóng vai trò chính trong việc phát hiện các sinh vật có khả năng gây hại.

Vòng amidan Waldeyer gồm có: Amidan khẩu cái , Amidan lưỡi ở gốc lưỡi , Amidan ống quanh lỗ mồm của ống Eustachian, Amidan họng ở vùng họng

Chức năng của khoang mồm

Tiêu hóa

Đường tiêu hóa khai mạc ở mồm. Quá trình tiêu hóa khai mạc khi thức ăn được đưa vào mồm, nghiền nát nhờ răng và làm ẩm bằng nước miếng. Nước miếng có một loại enzyme gọi là amylase khai mạc phân hủy carbohydrate thành đường. Chuyển động của lưỡi giúp đẩy khối thức ăn ướt, mềm ra phía sau mồm nơi có thể nuốt được. Khi nuốt nắp thanh quản đóng trên khí quản để đảm bảo thức ăn được đưa vào thực quản – ống dẫn đến dạ dày.

Phát âm

Việc phát âm yên cầu các động tác phức tạp xẩy ra theo trật tự. Không khí thoát ra đi qua các dây thanh âm trong thanh quản. Các dây thanh âm rung lên, tạo ra âm thanh. Loại âm thanh phụ thuộc vào độ kín của dây thanh âm và lực của không khí thoát ra. Chuyển động của lưỡi và môi giúp định hình âm thanh. Các cấu trúc mồm khác liên quan đến việc tạo ra âm thanh gồm có vòm mồm cứng, vòm mềm và mũi.

Hô hấp

Thở mũi phụ thuộc vào vòm mồm trên hoặc xương hàm trên và xương hàm phát triển tốt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc thở mũi gặp vấn đề. Khoang mồm sẽ tương trợ cho việc trao đổi khí. Việc thở mồm cũng đi kèm những nguy cơ. Do đó thở mũi vẫn là ưu tiên quan trọng.

Tương trợ thăng bằng, thị giác và thính giác

Nếu cơ quan lưỡi, xương hàm và khối hệ thống thần kinh sinh ba không khỏe mạnh, tất cả chúng ta có thể mất thăng bằng Tai của tất cả chúng ta là cơ quan cân bằng và nhận vai trò thính giác của tất cả chúng ta. Chúng gắn chặt với hàm ta. Xương hàm trên còn tương trợ hoạt động của nhãn cầu . Nếu nó không phát triển đầy đủ có thế gây sức ép cho nhãn cầu và tất cả những cơ tương trợ.

Dẫn lưu xoang

Nếu vòm mồm không phát triển đúng vị trí, kết cấu sẽ tác động ảnh hưởng đến quá trình dẫn lưu xoang với môi trường thiên nhiên ngoài.

Khoang mồm đóng vai trò quan trọng khi đối chiếu với thân thể: tiêu hóa, hô hấp, phát âm, dẫn lưu… Nắm rõ các đặc điểm kết cấu, chức năng của khoang mồm giúp tất cả chúng ta có phương pháp bảo vệ và quan tâm hơn để hoạt động của khoang mồm luôn khỏe mạnh. Lưỡi là nơi trú ngụ của rất nhiều vi trùng trong khoang mồm. Đây là điều thông thường vì hằng ngày tất cả chúng ta ăn lượng thức ăn vô cùng lớn. Mọi người đều đánh răng mỗi ngày nhưng không phải ai cũng lưu ý tới vệ sinh lưỡi. Điều này tạo tham gia cho vi trùng tích tụ và gây triệu chứng khó chịu.

You May Also Like

About the Author: v1000

tỷ lệ kèo trực tuyến manclub 789club