Ghê sợ đồng tính luyến ái (tiếng Anh: homophobia) là việc sợ hãi, có ác cảm hoặc tẩy chay khi đối chiếu với người đồng tính hay tình trạng đồng tính luyến ái một cách phi lý. Một số khái niệm thì không có cụm từ “một cách phi lý”.Nguồn gốc của việc tẩy chay cộng đồng LGBT đã được nghiên cứu rộng rãi và chống lại sự tẩy chay này cũng là một mục tiêu của cộng đồng LGBT.
Có nhiều dạng ghê sợ đồng tính luyến ái trong đó có sự sợ đồng tính luyến của chính mình (internalized homophobia), sợ bị phát hiện là đồng tính (social homophobia), ghê sợ đồng tính hợp lý (rationalized homophobia) và các dạng khác. Cũng đều có nhiều ý kiến nhận định rằng chứng ghê sợ đồng tính, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa phân biệt nam nữ là một dạng rối loạn tư cách cố chấp (intolerant personality disorder).
Chứng ghê sợ đồng tính luyến ái không được đề cập trực tiếp trong bất kỳ tài liệu phân loại bệnh nào theo Tài liệu chẩn đoán và thống kê các rối loạn thần kinh (Diagnostic and Statistic Manual of Mental Disorders) và Tài liệu phân loại thống kê quốc tế về đau ốm và các vấn đề sức khỏe (International Statistical Classification of Diseases and Related Health Problems). Khi đối chiếu với vài người, chứng ghê sợ đồng tính không phải là một vấn đề y khoa.
Ghê sợ đồng tính của chính mình
Sợ đồng tính của chính mình (internalized homophobia) là việc sợ, có ác cảm với cảm giác đồng tính trong bản thân mình vì thành kiến xã hội. Điều đó gây cho họ sự băn khoăn nặng nề hoặc sự không đồng ý chấp thuận thiên hướng tình dục của chính mình. Do đó đây là một dạng xích mích nhận thức (cognitive dissonance); họ không thể dung hòa xích mích giữa thích thú tình dục vô thức và thích thú tình dục có ý thức theo những giá trị và chuẩn mực của xã hội, tôn giáo và nền tảng giáo dục.
Họ có thể khôn xiết kiềm chế thèm muốn tình dục đồng tính của mình. Thỉnh thoảng họ phải trải qua xích mích tâm lý nặng nề giữa niềm tin vào tôn giáo hoặc chuẩn mực xã hội và nhu cầu tình dục hoặc tình cảm. Việc này còn có thể gây ra trầm cảm và tỉ lệ tự tử tăng cao trong những người dân đồng tính trẻ (đến 30% người trẻ có thiên hướng tình dục thiểu số đã từng tự tử).
Sợ đồng tính luyến ái của chính mình thỉnh thoảng là cảm giác của một thành viên một cách vô thức hay có ý thức muốn ủng hộ hoặc thích ứng với ý thức coi tất cả mọi người là dị tính luyến ái và quan hệ nam nữ là chuẩn mực của xã hội (chủ nghĩa dị tính luyến ái, heterosexism). Điều này làm cho họ khôn xiết kiềm chế và không đồng ý chấp thuận bản thân, song song nỗ lực thể hiện mình là người dị tính luyến ái để tạo vẻ vẻ ngoài hoặc để chính họ cảm thấy “thường nhật” hoặc “được đồng ý chấp thuận”. Một số người tự dung hòa rằng sự phối hợp dân sự (civil union) là một giải pháp có thể chấp nhận được hơn là một hôn nhân gia đình đồng giới chính thức. Cho dù đây là một nhận định khéo léo hay là vì thành kiến bản thân họ thì này cũng là vấn đề cần tranh biện.
Có ý kiến nhận định rằng vài hoặc hồ hết những người dân ghê sợ đồng tính luyến ái nhất là những người dân đồng tính kiềm chế, nhưng điều này vẫn có gây tranh cãi. Năm 1996, một nghiên cứu trên 64 nam giới dị tính luyến ái (trong đó một nửa tự cho mình là người ghê sợ đồng tính vì những kinh nghiệm xẩy ra và vì sự tự nhận mặt bên trong) ở ĐH Georgia cho thấy những người dân ghê sợ đồng tính (được định hình bằng chỉ số ghê sợ đồng tính) thì thường có những phản ứng cương cứng khi nhìn những hình ảnh đồng tính hơn là những người dân không ghê sợ đồng tính. Một nghiên cứu khác vào 2012 cũng cho kết quả tương tự khi những nhà nghiên cứu thấy rằng những sinh viên tới từ những “gia đình chống đối đồng tính cứng nhắc nhất” lại bộc lộ việc bị quyến rũ tình dục đồng giới kiềm chế nhất. Những nhà nghiên cứu này lưu ý rằng điều đó giảng giải vì sao những nhà lãnh đạo tôn giáo phản đối đồng tính luyến ái sau nó lại bị phát hiện là từng quan hệ đồng tính giấu giếm. Những nhà nghiên cứu nhận định rằng “những người dân này tự đấu tranh với chính họ [về việc họ là người đồng tính] và sự xích mích bên trong này tự phát ra ngoài [thành sự ghê sợ đồng tính.]”
Sợ bị phát hiện là đồng tính
Nhiều nhà lý luận trong đó có Calvin Thomas và Judith Butler nêu lên giả thuyết rằng sự ghê sợ đồng tính luyến ái có nguyên nhân sâu xa là vì sự sợ bị phát hiện là đồng tính. Có ít nhất một nghiên cứu đã cho thấy sự tương quan giữa sự ghê sợ đồng tính luyến ái ở nam giới và sự không kiên cố về vẻ nam tính mạnh mẽ của mình.
Họ có suy nghĩ hoặc cảm giác ghê sợ đồng tính để truyền bá ý nghĩ của họ về giới đồng tính song song tránh xa giới này ra. Như vậy bằng phương pháp đó họ xác nhận họ là người dị tính trong một nền văn hóa truyền thống dị tính. Họ phản đối mạnh mẽ để khẳng định rằng họ thuộc số đông và được xã hội đồng ý chấp thuận. Ta cũng tồn tại thể thấy điều này trong chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và tính bài ngoại.
Nancy J. Chodorow khẳng định rằng chứng ghê sợ đồng tính luyến ái có thể được xem như là một cách tự bảo vệ mình khỏi sự nghi vấn về nam tính mạnh mẽ.
Nhiều nhà tâm lý phân tích giảng giải rằng chứng ghê sợ đồng tính luyến ái là một rình rập đe dọa đến sự việc thôi thúc đồng tính bên trong, cho dù sự thôi thúc đó là đang diễn tiến hay chỉ là giả thuyết.
Chủ nghĩa chống tư sản và phương Tây
Vài nhà tư tưởng cánh tả/cộng sản coi đồng tính luyến ái là một “căn bệnh của giai cấp tư sản”, một trào lưu cánh hữu hoặc một “căn bệnh của phương Tây”. Theo Gert Hekma, Harry Oosterhuis và James D. Steakley, Vladimir Lenin coi cuộc phóng thích tình dục là đặc trưng của xã hội tư bản và sự suy đồi của giai cấp tư sản. Khi Hitler nắm được chính quyền trực thuộc tại Đức, nhà thi hào cách mệnh Nga Maxim Gorky xem đồng tính luyến ái với chủ nghĩa phát xít là một và tuyên bố “Loại bỏ hết những người dân đồng tính, chủ nghĩa phát xít sẽ biến mất.”
Chính phủ nước nhà Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên kết tội đồng tính luyến ái là tệ nạn của xã hội tư bản hay một sự suy đồi đạo đức của phương Tây (nhất là Hoa Kỳ) và lên án văn hóa truyền thống đồng tính đã ủng hộ chủ nghĩa hưởng thụ, sự phân chia giai cấp và tình dục bừa bãi. Ở Bắc Triều Tiên, “Vi vi phạm lối sống xã hội chủ nghĩa” có thể bị phạt tù đến hai năm..
Robert Mugabe, tổng thống của Zimbabwe, đã tiến hành một chiến dịch chống người đồng tính, và nhận định rằng trước lúc là thuộc địa, nước này sẽ không có đồng tính luyến ái. Hành động lên án đồng tính luyến ái trước tiên của ông là vào tháng 8 năm 1995 trong Hội chợ Sách Quốc tế Zimbabwe. Ông kêu gọi “Nếu ai thấy người nào đó trong cuộc diễu hành của những người dân đồng tính, hãy bắt họ và giao cho công an”. Tháng 9 năm 1995, Quốc hội Zimbabwe cho ra đời luật cấm hành vi đồng tính luyến ái. Năm 1997, một tòa án tuyên bố Canaan Banana, một người tiền nhiệm của Mugabe và là tổng thống trước tiên của Zimbabwe, tội danh 11 lần kê gian (giao phù hợp với nam giới) và hành động sỗ sàng.
Sự phổ quát
Mức độ phản đối đồng tính luyến ái không phải ở đâu cũng giống nhau, nó tùy thuộc vào tuổi tác, chủng tộc, dân tộc bản địa, nam nữ, từng lớp xã hội, nền tảng giáo dục, đảng phái và tôn giáo. Theo tổ chức từ thiện chống HIV/AIDS AVERT, tình trạng ghê sợ đồng tính luyến ái thường song song với việc không có cảm giác hoặc kinh nghiệm đồng tính luyến ái, chưa xúc tiếp nhiều với những người đồng tính và có cách nhìn theo phía tôn giáo. Nhiều người khác thì nhận định rằng họ cởi mở với đồng tính, nhưng khi xem ảnh thân tình của những người dân đồng tính thì họ lại đều thấy ghê sợ.
Một nghiên cứu ở các thanh niên nam da trắng của ĐH Cincinnati thực hiện bởi Janet Baker cho thấy những cảm tưởng tiêu cực về người đồng tính thường song song với những biểu hiện tẩy chay. Nghiên cứu cũng cho thấy các biểu hiện ghét người đồng tính, tư tưởng bài Do Thái và phân biệt chủng tộc thường đi chung với nhau. Một nghiên cứu trong năm 2007 ở Anh giải trình rằng 90% dân số ủng hộ việc cấm cư xử tẩy chay khi đối chiếu với người đồng tính.
Nhiều người dị tính lo sợ người khác nghĩ mình là đồng tính nhất là thanh niên khi nghĩ rằng một yếu tố để trở thành nam tính mạnh mẽ là không bị cho là đồng tính.[33][34] Chế nhạo một vài học trò (thường không phải đồng tính) vì nhận định rằng họ lập dị là tình trạng thường thấy ở các trường học ở nông thôn và ngoại thành ở Mỹ và tình trạng này thường song song với những biểu hiện nguy hiểm và sự phát triển nhanh đấm đá bạo lực (hàng loạt vụ thảm sát học đường) thực hiện bởi những học trò nam trả thù để chứng mình nam tính mạnh mẽ của mình.
Ở Mỹ, thái độ khi đối chiếu với người đồng tính cũng tùy thuộc vào đảng phái. Đảng viên Đảng Cộng hòa thường có thái độ tiêu cực khi đối chiếu với người đồng tính hơn là đảng viên Đảng Dân chủ, theo một thống kê thuộc Nghiên cứu Bầu cử Quốc gia (National Election Studies) từ thời điểm năm 2000 đến năm 2004.
Sự ghê sợ đồng tính luyến ái cũng thay đổi theo vùng, thống kê cho thấy miền Nam nước Mỹ có thành kiến với những người đồng tính hơn là các vùng khác ở Mỹ.
Chống lại sự ghê sợ đồng tính
Để làm giảm sự ghê sợ đồng tính, cộng đồng thiên hướng tình dục thiểu số tổ chức các sự kiện như các cuộc diễu hành của người đồng tính (gay pride) và các hoạt động sinh hoạt chính trị. Tuy nhiên, những hoạt động này cũng trở nên chỉ trích vì bị nhận định rằng là mang tính kích dục quá quắt. Một dạng chống lại sự tẩy chay người đồng tính khác là Ngày thế giới chống tẩy chay người đồng tính (IDAHO, International Day Against Homophobia) đã được tổ chức lần thứ nhất vào trong ngày 17 tháng 5 năm 2005[38] ở hơn 40 nước.
Vài người nhận định rằng chống cộng đồng thiên hướng tình dục thiểu số là phi đạo đức và vô nhân đạo. Warren J. Blumenfeld nhận định rằng.
Tẩy chay người đồng tính làm cho thanh niên quan hệ tình dục sớm hơn để chứng mình rằng họ là dị tính. Thành kiến với những người đồng tính làm cho việc lây lan AIDS tăng lên đáng kể. Tẩy chay người đồng tính ngăn chặn các trường học mở những lớp học giáo dục nam nữ lành mạnh một cách hiệu quả và ngăn chặn các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Nguồn: Wikipedia