Chủ nghĩa tự do (Liberalism)

Tác giả: Trương Minh Huy Vũ

Chủ nghĩa tự do (liberalism) hay cách “tiếp cận tự do” là một trong những trường phái quan trọng nhất trong lý thuyết quan hệ quốc tế. Xuất hiện từ thời kỳ cải cách tôn giáo thế kỷ 16 ở Châu Âu, chủ nghĩa tự do đã phát triển thành một trường phái gồm nhiều nhánh tư tưởng khác nhau mặc dù cùng chung những giả thiết cơ bản. Từ đó, chủ nghĩa tự do đề cao vai trò của đa số thành viên, hạn chế vai trò của quốc gia, nhấn mạnh vấn đề nguyên tắc thượng tôn pháp luật song song bảo vệ các quyền tự do dân sự thành viên, quyền sở hữu tư nhân… Từ đó, khi đối chiếu với chính trị trong nước, chủ nghĩa tự do nhận định rằng các chính thể cần tôn trọng và bảo vệ quyền tự do của đa số thành viên, nhất là các quyền tự do dân sự, song song hạn chế sự can thiệp của quốc gia vào những hoạt động của nền tài chính.

So với chính trị quốc tế, chủ nghĩa tự do đề cao vai trò của đa số thành viên, tổ chức với tư cách là các tác nhân trong quan hệ quốc tế bên cạnh quốc gia. Khác với chủ nghĩa hiện thực vốn nhấn mạnh vấn đề khía cạnh ích kỷ, xấu xa của thực chất con người và nhận định rằng quan hệ quốc tế là một trò chơi có tổng bằng không trong đó các quốc gia luôn cạnh tranh lẫn nhau, chủ nghĩa tự do nhấn mạnh vấn đề khả năng tiến bộ của con người và nhận định rằng các quốc gia thay vì cạnh tranh có thể hợp tác với nhau để cùng đạt được lợi ích chung, nhất là thông qua các thiết chế quốc tế.

Mở “hộp đen” Hộp đen (black box) là phòng ban tự thu thanh trên phi cơ nhằm lưu lại các cuộc đàm thoại diễn ra trong khoang lái. Trong quan hệ quốc tế thuật ngữ này được ví von như biểu tưởng Lever nghiên cứu. Trong lúc các nhà hiện thực truyền thống có xu hướng “đóng hộp” phân tích hành vi mỗi quốc gia ở phương diện quốc tế như một mạng lưới hệ thống, các nhà lý thuyết theo trường phái tự do kêu gọi “mở hộp” để sở hữu thể quan sát được những chuyển động từ bên trong tác nhân Quốc gia.

Đặc biệt quan trọng, chủ nghĩa tự do giành nhiều quan tâm khi đối chiếu với quan hệ giữa chính trị trong nước và chính sách đối ngoại cũng như quan hệ quốc tế của đa số quốc gia. Mở toang “hộp đen” của chủ thể quốc gia, chủ nghĩa tự do đã chỉ ra tác động của sự việc tương tác giữa các chủ thể trong chính trị đối nội tới sự việc hình thành các chính sách đối ngoại của quốc gia, trái ngược với giả thiết của chủ nghĩa hiện thực coi quốc gia như một chủ thể đơn nhất. Diễn đạt theo ý riêng từ Immanuel Kant với “Nền hòa bình vĩnh cửu”, đến bài tổng hợp mang tính xây dựng trường phái của học giả Andrew Moravcsik (1999), rồi các phân nhánh bổ sung như “trò chơi hai tầng nấc” (two level games) (Putman 1988) hay “tiếp cận xã hội” (Schirm 2009), những tư tưởng của chủ nghĩa tự do đã đặc biệt quan trọng nhấn mạnh vấn đề vai trò của đa số yếu tố chính trị đối nội khi đối chiếu với chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của đa số quốc gia.

Bức tranh đa diện về phương diện lý thuyết, và sự phân chia mới-cũ trong những phiên bản đã gây không ít khó khăn cho những nhà nghiên cứu khi muốn tiếp cận có mạng lưới hệ thống trường phái tự do. Trong toàn cảnh đó, sự phân loại chủ nghĩa tự do của Moravcsik có ưu điểm vì xây dựng được tổng quan về nhiều góc nhìn, trên phương thức vừa bổ sung lại vừa bao quát sự sàng lọc thành một mạng lưới hệ thống cấu trúc. Theo Moravcsik, chủ nghĩa tự do dựa trên ba giả thiết chủ yếu:

  • Thành viên và xã hội có vai trò tiền phong hơn so với quốc gia;
  • Sự xuất hiện chính sách của chính phủ nước nhà bắt nguồn từ việc hình thành lợi ích các nhóm xã hội quốc nội; và
  • Vai trò của mạng lưới hệ thống quốc tế được hiểu như một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, khác với giả thiết của chủ nghĩa hiện thực coi mạng lưới hệ thống thế giới bắt nguồn từ sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia. Từ đó, mạng lưới hệ thống quốc tế dưới góc nhìn của đa số nhà tự do là một mạng lưới hệ thống thỏa thuận hợp tác giữa các lực lượng bắt nguồn từ nội tại mỗi quốc gia.

Từ ba giả thiết này, Moravcsik chia trường phái tự do thành ba mô hình chính:

– Mô hình tự do cộng hòa: Sự lựa chọn chính sách đối ngoại của đa số quốc gia bắt nguồn từ thiết chế mà nó thay mặt. Mô thức tự do cộng hòa nhấn mạnh vấn đề lực đẩy của thiết chế chính trị thông qua mức độ thay mặt của người dân và nhóm dân sự đến những quyết định đối ngoại của Quốc gia. Thay mặt nổi trội nhất của lập luận này là thuyết hòa bình nhờ dân chủ. Hai tóm lại dựa trên quan sát thực nghiệm của thuyết hòa bình nhờ dân chủ là tâm điểm của giới học thuật phương Tây từ nhiều năm qua: (i) Hai nước có chính sách dân chủ không bao giờ xẩy ra cuộc chiến tranh với nhau và (ii) Tồn tại mối tương tác giữa dân chủ và tính phi máu chiến của một chính phủ nước nhà. Một hướng nghiên cứu mở rộng theo xu phía này nhấn mạnh vấn đề tính khác biệt giữa các mạng lưới hệ thống chính trị và mức độ tổ chức xã hội giữa các quốc gia tương đồng cùng đuợc nhìn nhận là “dân chủ”. Ví dụ như giữa mức độ tập trung quyền lực quốc gia ở nước Pháp (mạnh) và Mỹ (yếu) với mức độ tổ chức xã hội của hai nước này – theo khunh hướng trái lại: yếu ở Pháp và mạnh ở Mỹ. Điều này còn có thể đưa ra nhiều chỉ dấu giảng giải các lựa chọn chính sách đối ngoại của hai chính phủ nước nhà này.

– Mô hình tự do lý tưởng: Tương tự như mô hình cộng hòa đề cao các yếu tố nội tại của mức độ thay mặt mang tính thiết chế, mô hình tự do lý tưởng cũng nhấn mạnh vấn đề đến mức độ thay mặt trong trục quy chiếu tương tự, tuy nhiên với trọng tâm khác là thang giá trị và chuẩn tắc. Có thể gặp ở mô hình này và chủ nghĩa kiến tạo nhiều nét tương đồng khi cùng đưa bản sắc, chuẩn tắc và giá trị lên bàn cân so sánh với hành động của đa số quốc gia. Hiểu một cách đơn giản hai trường phái này gặp nhau ở việc xem thang giá trị là nguồn gốc chính giảng giải một chính sách hay một lập trường của chính phủ nước nhà quốc gia phản ánh trên forums quốc tế. Thang giá trị đóng vai trò quan trọng bởi vì nó sẽ mang lại tính chính đáng cho những quyết sách và hợp thức hóa các lựa chọn qua mô thức tạo đồng thuận của số đông. Moravcsik lập luận trong nội dung bài viết của mình rằng, ba nền tảng của mô hình tự do lý tưởng quy tụ qua: (i) Bản sắc dân tộc bản địa, được khái niệm gắn liền với khái niệm quốc gia thông qua lãnh thổ và quyền công dân, (ii) Ý thức hệ chính trị, bắt nguồn từ dòng tư tưởng chủ đạo mà nước đó thụ hưởng và (iii) Quy luật điều tiết tài chính xã hội với trọng tâm là góc nhìn hay tập quán cộng đồng về một ý kiến nào đó. Sự mở cửa thị trường tự do, chẳng hạn, sẽ phụ thuộc nhiều vào các chuẩn tắc trong việc định hình vai trò quản lý của Quốc gia hay việc xã hội đó gật đầu tính cộng đồng hay chủ nghĩa thành viên nhiều hơn.

– Mô hình tự do lợi ích: Xuất phát điểm của mô hình này là ý kiến nhận định rằng các quyết định cuộc chiến tranh hay hòa bình, mở cửa hay bế quan, tự do hay bảo lãnh,… của mỗi quốc gia đều là kết quả của quá trình vận động hành lang của đa số nhóm lợi ích trong mỗi nước. Thông thường đằng sau bất kỳ quyết định chính sách công nào thì cũng đều tạo thành nhiều nhóm khác nhau hưởng lợi hay chịu tác động tiêu cực từ các chính sách đó. Các nhóm vì thế có xu hướng tập phù hợp với nhau để vận động Quốc gia bảo vệ quyền lợi của đa số thành viên mình thay mặt hay nỗ lực tác động để giành lấy lợi ích riêng cho chính bản thân mình. Lợi ích hay kỳ vọng hưởng lợi càng nhiều thì động lực để các nhóm tham gia tranh giành tác động tác động đến quá trình hoạch định chính sách càng lớn. Và trái lại, cái giá thua thiệt do chính sách sắp được cho ra đời càng cao thì khả năng hình thành các nhóm đối lập để vận động chống lại chính sách đó càng nhiều.Dựa vào phân loại mô hình trên dẫn đến ba phương thức ứng dụng cách tiếp cận tự do trong thực tiễn nghiên cứu: (i) Nếu theo mô hình tự do cộng hòa thì góc nhìn phân tích tính thay mặt hay tác động của thể chể sẽ đóng vai trò tâm điểm; (ii) Nếu theo mô hình tự do lý tưởng thì góc nhìn thang giá trị, phân tích thang giá trị, chuẩn tắc xã hội sẽ đóng vai trò tâm điểm; (iii) Nếu theo mô hình tự do lợi ích thì góc nhìn lợi ích, phân trò trống chuyển động của những nhóm vận động hành lang sẽ đóng vai trò tâm điểm.

Tóm lại, dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do, Quốc gia được mô hình hóa như thể một trường đấu cạnh tranh của đa số tổ chức xã hội, thành viên và các chính sách đối ngoại là kết quả của một sự dàn xếp giữa các chủ thể trong nước tìm cách thực thi các quyền lợi thông qua: thiết chế, lợi ích và thang giá trị (hay chuẩn tắc).

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – ĐH KHXHvàamp;NV TPHCM, 2013).

You May Also Like

About the Author: v1000