Quản lý hành chính nhà nước là gì? Đặc điểm quản lý hành chính nhà nước?

Việt Nam đang tập trung phát triển nền kinh tế tài chính thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo mục tiêu này, bên cạnh việc tập trung các nguồn lực thì việc củng cố, hoàn thiện máy bộ quản lý quốc gia đóng vai trò đặc biệt quan trọng quan trọng, trong đó phải nhắc đến vai trò của hoạt động quản lý hành chính quốc gia. Đây là hoạt động tổ chức và điều hành nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản nhất của quốc gia trong quản lý xã hội. Chính vì vậy, việc tăng ngày một nhiều phân cấp quản lý hành chính quốc gia ở Việt Nam hiện nay là khôn xiết cấp thiết, bởi đây sẽ là một nội dung quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của những đơn vị, tổ chức hành chính công ở Việt Nam.

Vậy, có thể hiểu thế nào về quản lý hành chính quốc gia? Dưới góc độ pháp lý, quản lý hành chính quốc gia có những đặc điểm gì?

1. Quản lý hành chính quốc gia là gì?

Theo phong cách hiểu chung một cách tổng thể nhất, quản lý đó chính là việc tác động định hướng lên một mạng lưới hệ thống nào đó nhằm đảo bảo mạng lưới hệ thống đó phát triển một cách trật tự và phù phù hợp với những quy luật được hướng tới. Trên cơ sở này còn có thể hiểu quản lý quốc gia là một hình thức của quản lý xã hội tuy nhiên có chứa đựng tính quyền lực của quốc gia và sử dụng cơ quan ban ngành lực đó để kiểm soát và điều chỉnh quan hệ nhằm đảm bảo mục tiêu duy trì và phát triển một cách trật tự. Từ đó đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Quốc gia.

Quản lý hành chính quốc gia là hoạt động hành chính của cơ quan thực thi quyền lực quốc gia (quyền hành pháp) để quản lý, điều hành các ngành nghề của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật, đó là Cơ quan chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Tuy mạng lưới hệ thống những đơn vị: quyền lực, xét xử và kiểm sát thực hiện quyền lập pháp và tư pháp không thuộc mạng lưới hệ thống quản lý hành chính quốc gia nhưng trong cơ chế vận hành của nó cũng luôn tồn tại công việc hành chính như chủ trương công vụ, công việc tổ chức cán bộ… và phần công việc này cũng phải tuân thủ những quy định thống nhất của nền hành chính quốc gia. Quyền hành pháp có 2 nội dung:

– Một là lập quy được thực hiện bằng việc phát hành các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện pháp luật.

– Hai là quản lý hành chính quốc gia tức là tổ chức, điều hành, phối hợp những hoạt động kinh tế tài chính – xã hội để lấy pháp luật vào đời sống xã hội.

Như vậy, có thể hiểu quản lý hành chính quốc gia thực chất đó chính là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Quốc gia, đó là việc tác động có tổ chức và kiểm soát và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật quốc gia so với các quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Quốc gia trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, do những đơn vị trong hệ thông quản lý hành chính từ Cơ quan chính phủ ở TW xuống Uỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương tiên hành.

2. Đặc điểm quản lý hành chính quốc gia:

Quản lý hành chính quốc gia có những đặc điểm cơ bản sau đây:

2.1. Quản lý hành chính quốc gia là hoạt động mang tính quyền lực quốc gia:

Tính quyền lực quốc gia là đặc điểm cơ bản nhất để thông thông qua đó phân biệt được hoạt động quản lý hành chính quốc gia với hoạt động quản lý mang tính xã hội khác. Quyền lực quốc gia trong quản lý hành chính quốc gia trước hết thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí quốc gia thông qua phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng quan trọng được sử dụng là văn bản quản lý hành chính quốc gia. Bằng việc phát hành văn bản, chủ thể quản lý hành chính quốc gia thể hiện ý chí của mình dưới dạng các chủ trương, chính sách pháp luật nhằm định hướng cho hoạt động xây dựng và ứng dụng pháp luật; dưới dạng quy phạm pháp luật nhằm cụ thể húa các quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực quốc gia và của cấp trên thành những quy định cụ thể chi tiết để sở hữu thể triển khai thực hiện trong thực tiễn; dưới dạng các mệnh lệnh cá biệt nhằm ứng dụng pháp luật vào thực tiễn, trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của khá nhiều bên tham gia quan hệ quản lý; dưới những dạng mệnh lệnh chỉ huy cấp dưới trong hoạt động, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; dưới dạng những thông tin hướng dẫn đối lập với cấp dưới nhằm đảm bảo sự thống nhất, có mạng lưới hệ thống của máy bộ hành chính quốc gia.

2.2. Quản lý hành chính quốc gia là hoạt động được tiến hành bởi những chủ thể có quyền năng hành pháp:

Theo quy định của pháp luật, chủ thể quản lý hành chính quốc gia Việt Nam gồm có: cơ quan hành chính quốc gia và công chức của những cơ quan này; thủ trưởng của cơ quan quốc gia; các công chức quốc gia, member hoặc tổ chức xã hội được quốc gia ủy quyền quản lý hành chính so với một số loại việc nhất định. Như vậy, đối tượng người sử dụng của quản lý hành chính quốc gia là các quan hệ xã hội phát sinh trên mọi ngành nghề, thuộc đời sống dân cư, đời sống pháp luật và trong nội bộ của những đơn vị quốc gia. Thông thông qua đó, có thể xác định khách thể mà hoạt động quản lý hành chính quốc gia hướng đến là trật tự quản lý quốc gia trên ngành nghề hành pháp.

Hành pháp là một trong ba quyền của quyền lực quốc gia thống nhất mang tính quyền lực chính trị. Cơ quan chính phủ với tư cách là cơ quan hành pháp tốt nhất (cơ quan chấp hành của Quốc hội) thực hiện quyền hành pháp tốt nhất so với toàn dân, toàn xã hội. Nhưng, Cơ quan chính phủ thực hiện chức năng của mình thông qua mạng lưới hệ thống thiết chế hành. chính của nền hành chính quốc gia tốt nhất. Hành pháp là quyền lực chính trị; quản lý hành chính quốc gia là thực thi quyền hành pháp, nó phục tùng và phục vụ quyền hành pháp nhưng bản thân nó không phải là quyền lực chính trị.

Trạng sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568

2.3. Quản lý hành chính quốc gia là hoạt động chấp hành – điều hành của quốc gia:

Nói theo một cách khác sự phối hợp giữa tính chấp hành và điều hành đã tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong nội dung của hoạt động quản lý hành chính quốc gia. Này cũng là đặc điểm cơ bản để phân biệt quản lý hành chính quốc gia với hoạt động lập pháp và tư pháp.

– Tính chấp hành thể hiện ngay từ mục tiêu của quá trình quản lý hành chính quốc gia đó là đảm bảo cho những văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực quốc gia phát hành được thực hiện trên thực tế. Điều này được thể hiện trong việc mọi hoạt động quản lý hành chính quốc gia đều phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật. Không chỉ vậy, tính điều hành được biểu hiện thông qua việc các chủ thể quản lý hành chính quốc gia phải tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ huy trực tiếp so với các đối tượng người sử dụng quản lý thuộc quyền theo một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng người sử dụng có liên quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của khá nhiều bên trong quan hệ quản lý; song song làm cho những văn bản pháp luật đi vào đời sống, được ứng dụng cụ thể, xác thực.

– Tính điều hành của hoạt động quản lý hành chính quốc gia thể hiện trong việc chủ thể có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Trong quá trình đó, các chủ thể này, không chỉ tự mình thực hiện pháp luật mà quan trọng hơn hết chúng đảm nhận chức năng chi đạo nhằm vận hành hoạt động của những đơn vị, đơn vị trực thuộc theo một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng người sử dụng có liên quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của khá nhiều bên trong quan hệ quản lý.

2.4. Hoạt động quản lý hành chính quốc gia là hoạt động mang tính dữ thế chủ động và sáng tạo:

Địa thế căn cứ vào tình hình, đặc điểm của từng đối tượng người sử dụng quản lý cũng như xét tuyển, các yếu tố xoay quanh từng trường hợp cụ thể mà các chủ thể quản lý hành chính quốc gia có thể đề ra các chủ trương, giải pháp quản lý thích hợp.

Tính dữ thế chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ nét trong hoạt động xây dựng, phát hành văn bản pháp luật thuộc ngành nghề quản lý quốc gia. Đây là đặc điểm tồn tại bởi chính bản thân mình sự phức tạp, đa dạng, phong phú của đối tượng người sử dụng quản lý hành chính quốc gia; song song yên cầu chủ thể quản lý phải ứng dụng giải pháp giải quyết và xử lý mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, dữ thế chủ động và sáng tạo không vượt ra ngoài phạm vi pháp luật quy định.

2.5. Quản lý hành chính quốc gia là hoạt động có tính liên tục:

Nói theo một cách khác mạng lưới hệ thống cơ quan quản lý hành chính quốc gia được liên kết chặt chẽ, thống nhất từ TW đến địa phương; hoạt động dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Tức thị cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên; song song, cấp trên cũng phải lắng tai ý kiến của cấp dưới, cấp dưới có quyền dữ thế chủ động sáng tạo, tổ chức thực hiện pháp luật phù hợp.

Khác với hoạt động lập pháp và tư pháp, quản lý hành chính quốc gia luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng nghỉ của đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù này được xem như là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và hoạt động, quy chế công chức, công vụ của máy bộ hành chính quốc gia; tạo ra máy bộ hành chính gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có hàng ngũ công chức năng động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng buộc trách nhiệm so với hoạt động của mình.

Mặt khác, việc tổ chức tổ chức cơ cấu cơ quan quản lý hành chính quốc gia thành một khối thống nhất cũng góp phần đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động hành pháp. Khác với hoạt động lập pháp và tư pháp, quản lý hành chính quốc gia luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng nghỉ của đời sống xã hội.

You May Also Like

About the Author: v1000