Hoa hải đường lòa loại cây hoa đẹp, có nguồn gốc từ trung quốc. Hoa được nhân giống và trồng rất nhiều tại Việt Nam từ rất mất thời gian. Đây là loại hoa đẹp và ý nghĩa thường được làm hoa lá cây cảnh trưng trong nhà mỗi dịp tết. Vậy loại hoa này mang đến ý nghĩa gì mà được nhiều người ưa thích đến thế ? Hãy cùng Hoa Tươi Văn Nam tìm hiểu qua nội dung bài viết phía dưới nhé.
Ý nghĩa hoa hải đường trong tử vi phong thủy
Nhiều người thường không biết hoa hải đường trong tử vi phong thủy có ý nghĩa gì? Hoa hải đường là loại hoa tượng trưng cho một ngày xuân tươi mới, chào đón cái Tết đang về. Nên người ta thường chọn hải đường để chưng Tết. Nhằm đem lại cảm giác sống động trong ngôi nhà, cũng như thể hiện được ý nghĩa tử vi phong thủy của nó.
Hải đường trong tử vi phong thủy là một loài hoa tượng trưng cho việc sang giàu, phú quý. Sát gần đó còn thể hiện cho một cuộc sống đầm ấm, một tình bạn thắm thiết. Là khuôn mặt cho việc xum vầy, loài hoa này còn có màu tươi tỉnh tạo cho tất cả chúng ta cảm giác tràn đầy năng lượng. Mang tài lộc đến cho chủ sở hữu, giúp làm ăn được thuận buồm xuôi gió trong mùa năm mới tết đến đến.
Mời bạn tham khảo qua: Những mẫu hoa tặng người yêu đẹp tuyệt vời nhất
Sự tích hoa hải đường
Khi linh mục Kamêli được phái tới Nhật Bản để truyền giáo thì ông không ngờ rằng ông lại gặp gỡ ở đây những vị thần có khả năng quyến rũ cả những cha cố tiếng tăm. Ông thề rằng ông sẽ tránh xa mọi cám dỗ trần thế và tự hành tội mình bằng cái đói và cái khát. Bởi vậy các thầy học của ông và bản thân ông đều tin rằng với sự trong sáng của mình ông rất đáng để được ơn huệ của Chúa, và Chúa sẽ giúp ông biến những người dân Nhật Bản nhầm nhỡ theo đạọ .
Ở Nhật Bản, trong lúc chuẩn bị sẵn sàng cho công việc đại sự, cứ chiều chiều ông lại vào rừng nhặt nhạnh các rễ cây và bắt châu chấu đem phơi khô dành riêng cho ngày đông giá rét. Phải nói rằng số lượng lớn châu chấu mà ông tìm kiếm được là ở trên các cành của một chiếc cây lớn. Châu chấu nhiều đến nỗi dù ông cố bắt hết thì sang chiều hôm sau chúng lại phát triển thành bầy nhung nhúc.
Vào trong 1 buổi chiều oi bức, Kamêli nghỉ chân trong một làng xa, kể chuyện cho những người dân nông dân nghe về buổi truyền giáo trên núi và mãi tới tận nửa đêm ông mới tới được cái cây lạ thường kiạ Mặt trăng tròn vành vạnh nhô cao trên đỉnh rừng, cây cối đứng im lìm tựa như đã thấm mệt, còn lũ châu chấu thì lặng im hoặc có thể vị linh mục đã quá quen với tiếng kêu ri rỉ của nói đến nỗi chẳng buồn nghe nói nữa.
Khi Kamêli chắp hai tay vẻ tôn kính và ngước lên trời tạ Thượng Đế vì ơn huệ của một ngày qua thì trong đám lá cây bỗng vang lên tiếng cười ngọt ngào của một thiếu phụ.
– Ha Ha Ha! – một sinh vật như một chú thỏ, thoăn thoắt nhảy từ cành nọ qua cành kia, phô hàm răng trắng xoá.
“Một kẻ vô đạo đã phái con quỷ này đến cám dỗ ta đây” – Kamêli quả quyết.
Sau cái khoát tay của ông, con quỷ dường như hừng chí hơn, nó liền nhảy ngay xuống cành cây thấp nhất và khai mạc huơ huơ đôi chân trắng ngay trên đầu vị linh mục.
Kamêli lùi lại vài bước, chuyên chú nhìn cái sinh vật kỳ dị kiạ toàn thân nó được bao quanh một lớp xanh hòa lẫn trong màu xanh lá cây, chỉ có đôi chân trắng nuột và cái đầu nhỏ tóc vàng lấp lóa ánh trăng là thấy rõ và được thu lại tựa một bông hoa sặc sỡ đang kỳ nở rộ.
– Ngươi là ai? – tu sĩ hỏi
– Hi hi! Ha ha!
– Ngươi là nữ nhi ư?
Sinh vật lắc đầu quầy quậy
– Vậy ngươi là ai? Tên ngươi là gì?
– Ta là Đơriađa, vong hồn của cái cây này – đầu tóc vàng thú nhận – Ta đến để tạ ơn ngươi vì ngươi đã làm cho thân cây của ta sạch bóng lũ châu chấu tanh hôi.
Nói xong, hồn cây nhảy luôn vào lòng bàn tay của tu sĩ, đoạn ôm chầm lấy ông và gắn vào bộ râu của ông một nụ hôn. Kamêli lúng túng đến nỗi đáng lẽ phải đẩy cô gái rừng xanh ấy ra xa thì ông lại kéo diết cô ta lại phía mình và cứ để nguyên giây phút kỳ diệu như vậy trong đời một hồi lâu.
– Ta không thể ở lại với nhà ngươi lâu hơn được nữa – Đơriađa thì thào – nếu không cái cây của ta sẽ khô héo mất.
Con quỷ vùng thoát ra khỏi tay ôm của kamêli và nhảy lên một cành cây xanh.
Chỉ tới lúc này vị tu sĩ mới hiểu rằng ông đã phá bỏ lời thề về việc trinh trắng và ông trở về quê hương trong tâm trạng đầy u uất. Biết làm thế nào được? Liệu ta có còn xứng danh là một vị linh mục nữa hay là không?
Cho tới tận đêm khuya lạnh lẽo, cái đầu bốc lửa của Kamêli mới nguôi ngoai được đôi chút. Ông khai mạc suy nghĩ nghiêm túc về những sự việc vừa xẩy ra ông đã phá bỏ lời thề rồi ư? Người đã hôn ông không phải là một thiếu phụ mà là một vong hồn, bởi vậy, cái hôn này chẳng phải đem lại niềm vui sướng xác thịt. Nàng không phải là phù thủy, nếu không nàng đã biết sợ tín hiệu của nhà thời thánh. Phải, trong kinh thánh không hề nói đến chuyện xúc tiếp với thần linh, như vậy là đã phạm tội sau khoản thời gian tự chấn an như vậy, vị linh mục thấy tự tín hẳn lên.
Nửa đêm hôm sau, bị tính tò mò thôi thúc, Kamêli lại đến trước cái cây lạ.
– Đơriađa! – Ông cất tiếng gọi và tạm dừng dưới một chiếc lá to bản.
– Hi hi! Ha ha! – Một tiếng cười hỉ hả cất lên. Và qua tiếng lá cây sột soạt có thể đoán ra cô gái rừng xanh đang tụt xuống đất.
Ngay từ lúc trưa, vị tu sĩ đã nghĩ cách giảng giải lý do ông trở lại chỗ cây này khi Đơriađa đã ngồi trên một cành cây thấp, ông không hề lúng túng thanh minh:
– Tôi đến để xem lũ châu chấu có còn quấy rối các cây của bà nữa không.
– Một tên vô lại nào này đã leo lên tận ngọn cây rồi, – Cô gái rừng xanh than phiền – nếu ngươi bắt được nó, ta sẽ rất hàm ân ngườị
Kamêli quấn hai vạt áo quanh thắt sườn lưng và thoăn thoắt leo lên cây. Một con châu chấu đã biết thành tóm và ông đã được thưởng công xứng danh.
Cả lũ châu cháu đã biết thành diệt gọn, song Kamêli không hề lúng túng, nghĩ cách đoạt được nụ hôn của Đơriađa. Ngày mùa đông đã tới gần, không khí khai mạc nhuốm lạnh. Trong một đêm Đơriađa đã nói với Kamêli:
– Ngày mai ngươi đừng đến đây nữa trước ngày xuân, cái cây phải ngơi nghỉ và ta sẽ cùng nghỉ với nó.
Cái tin lạ thường khiến Kamêli sửng sốt. Ông sẽ sống ra sao đây nếu thiếu niềm vui hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, rồi nhiều tháng cứ qua đi thì sao Còn vong hồn dịu dàng – Đơriađa – hẳn nàng hiện giờ đang bị chết cóng trong hốc cây không, phải nghĩ ra một điều gì đó, phải làm một chiếc gì đó để cứu nàng.
Giá như còn thời kì hẳn Kamêli sẽ nghĩ ra được điều gì đó, nhưng lúc bấy giờ chẳng còn thời kì để nghĩ nữa, cần phải hành động. Ông túm lấy co gái rừng xanh, giấu dưới vặt áo rộng và đem về nhà mình. Suốt dọc đường Đơriađa đành câm mồm hến, chỉ khi đi vào gian phòng mà vị linh mục đặt nàng xuống giường, nàng mới kêu lên:
– Ngươi làm trò đời gì thế? Giờ này chắc cái cây của ta đang khai mạc chết héo.
– Mặc cho nó chết héo dễ thường trong rừng hiếm cây sao – Kamêli yên ủi nàng.
– Ông hiểu việc đó thế nào, nếu cái cây của tôi khô héo thì tôi sẽ chết. – Đơriađa nói, giọng buồn bã.
– Đó là chuyện nhảm nhí, ta sẽ phóng thích nàng khỏi nơi này – Vị tu sĩ thề thốt.
Tới ngày xuân, lúc các lá cây khai mạc trổ màu xanh, Đơriađa cứ yếu dần và ngày rộc hẳn đi.
– Hãy trả ta về với cây của ta! – Nàng khẩn khoản nói với Kamêli và ông đã sẵn sàng thực hiện yêu cầu của nàng, song song hy vọng không khí ngày xuân sẽ chữa cho Đơriađa lành bệnh.
– Thật là thống khổ! – Đơriađa kêu lên khi Kamêli đặt nàng ngồi trên cành cây thấp – Cái cây của tôi đã chết rồi.
Trước mắt Kamêli nàng cứ tự tan biến đi và hòa lẫn vào cây xanh: Mãi tới một ngày kia, hệt như bông hoa lộng lẫy, mớ tóc hung hung của nàng bừng đỏ lên, rồi sau đó chúng cứ nhấp nhoáng.
– Xin nàng đừng bỏ đi, hãy nói với ta, dù chỉ là đôi lời!
Kamêli thất vọng cầu xin và ông đã nghe được giọng nói yếu ớt đáp lại:
– Trên đỉnh ngọn cây kia vẫn còn hơi thở sốt dẻo của cuộc sống. Hãy bẻ lấy một nhành cây trên đó và đem trồng ngay xuống đất.
Kamêli bẻ ngay một cành cây tươi và đớn đau trở về quê hương. ít lâu sau, từ cành cây đó mọc lên một bụi cây và nở ra những bông hoa đỏ sặc sỡ.
Vài năm tiếp theo, vị tu sĩ già từ Nhật Bản trở về Châu Âu. Ông là người duy nhất mang theo về một chậu hoa mà ai cũng phải trằm trồ. Kamêli đặt tên nó là Hoa Đơriađa nhưng người đời không thể nhập tâm được một chiếc từ khó đọc như vậy nên đã gọi tên hoa bằng tên vị linh mục: Kamêli – hoa hải đường. Ngoài ra hoa hải đường còn tồn tại loại hoa white color tinh
Tên khoa học của hoa hải đường
Cây hải đường là loài cây được bắt nguồn từ Trung Quốc. Malus spectabilis Borkh là tên gọi khoa học của nó, cây được nhân giống và đã có mặt tại Việt Nam từ rất mất thời gian. Là một loài hoa xuân nên thường được chọn làm hoa lá cây cảnh trưng bày trong mỗi dịp Tết.
Cách trồng và chăm sóc hoa hải đường
Kỹ thuật trồng hoa hải đường
- So với những bạn muốn trồng loài hoa hoa lá cây cảnh này thì có hai cách: Hoặc là trồng bằng cành chiết hoặc trồng bằng hạt.
- Còn nói tới kỹ thuật trồng hoa hải đường nhất thiết phải dùng bùn phù sa trộn với rơm sạch. Cứ 60% bùn phù sa trộn với 40% rơm. Trộn thật dẻo, dùng hỗn hợp này, khoanh lại bằng nắm tay. Ở giữa làm trũng một lỗ bằng quả trứng sau đó chọc lỗ cho hạt đã mọc mầm để bầu đất xếp xít nhau. Phía trên có lưới đen che mưa nắng và sương muối.
- Dùng tui Phường.E có đường kính từ 7 – 10cm dài 15cm cắt góc đáy túi cho thoát nước.
- Dùng phân ủ, trấu mục và đất bột tỷ lệ 50:50 phủ một lớp đất mỏng, cũng xếp những bầu này vào góc sân hay góc vườn để ươm.
- Phía trên có lưới đen che mưa nắng, cứ 1 tháng gấp đôi dùng nước ốc ngâm hoặc nước bể phốt hố xí tự hoại pha loãng hòa với 3 đến 4 phần nước lạnh, tưới đủ ẩm.
- Sau 3 đến 6 tháng, cây cao từ 15 đến 20cm ta tiếp tục ra hàng hay còn gọi là ra ngôi.
- Đất trồng là đất phải được phơi khô nỏ, sào sới nhiều lần. Tốt nhất là đất ở ruộng lúa là lý tưởng nhất. Làm đất tơi nhỏ rộng 1m20. Khi ra ngôi, nếu cây trong bầu bằng túi Phường.E thì khi trồng phải xé, bỏ túi.
- Nếu bầu bằng đất rơm trộn bùn thì cứ nguyên bầu để trồng. Lúc đầu khoảng tầm cách 30 × 30. Đất trồng nên dùng phân NPK 16 – 16 – 5 hoặc 10 – 10 – 3, mỗi mét vuông từ 300gr đến 0,5kg. Trộn thật đều trước lúc trồng. Hải đường ưa ánh sáng tán xạ nên phải có mái che.
Chăm sóc và bón phân cho cây Hải đường
- Từ lúc trồng đến khi cây cao 0,8m đến 1m, cứ một tháng bạn bón phân một lần.
- Dùng nước ốc ngâm hay nước bể phốt, pha loãng với 3 đến 4 phần nước lạnh tưới đều sau đó 18 tháng sau thì cây có hoa.
- Lưu ý cây to phải sau 3 – 4 năm mới tết đến có nhiều hoa đẹp.
Hình ảnh hoa hải đường vàng, trắng, đỏ, hồng
Phân biệt hoa trà và hoa hải đường
Ở miền Bắc và miền Trung có một loài hoa đẹp nở vào đầu Xuân ; thân và cành cây trưởng thành, cao vừa phải ; hoa năm cánh white color, đỏ thắm hay hồng tươi ; nhuỵ hoa màu vàng đậm nhưng không có mùi thơm. Dân gian quen gọi loài hoa này là hoa “ hải đường ”. Trong Từ vựng tiếng Việt (1997) cây “ hải đường ” được khái niệm là “ Cây nhỡ cùng họ với chè, lá dày có răng cưa, hoa red color trồng làm cảnh ”. Từ vựng Việt-Anh và Việt-Pháp thường dịch “ hải đường ” là camellia/camélia.
Sự xa rời giữa một cây mang tên là “ hải đường ” có thân và cành cây trưởng thành mà tôi hằng thấy trong những khu vườn cổ ở Huế, với tuyệt vời về một cây hải đường mảnh khảnh như đã được miêu tả qua những vần thơ trên đã khiến tôi thắc mắc trong một thời kì khá lâu. Không lẽ Tiên Điền tiên sinh lại miêu tả cây hải đường thiếu chuẩn xác đến thế ? Niềm hoài nghi này được giải vây khi chúng tôi tình cờ được thấy tận mắt cây hải đường đúng như tiên sinh đã miêu hoạ trong Kiều.
Một sáng mùa Xuân từ thời điểm cách đây đã có hơn 30 năm (ngày đó tôi còn là một một du học trò ở Nhật), khi đang đi tản bộ quanh khu cư xá du học trò ở một vùng khá yên tĩnh ở Đông Kinh, tôi chợt thấy một cây hoa mảnh khảnh, cành trĩu hoa màu hồng tươi. Loài hoa này tôi chưa bao giờ thấy ở Việt Nam. Nhân có người đi qua, tôi hỏi hoa ấy tên gì. Ông ta bảo : “ Kaidô desu yo ” (Hải đường đấy mà !). Không hiểu tâm linh nào này đã cho tôi biết kaidô đích thị là loài hoa hải đường “ lả ngọn đông lân ” mà Nguyễn Du đã nhắc đến trong Kiều ! Cho tới lúc bấy giờ khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn chưa quên được cảm giác khoan khoái nhẹ nhõm lúc đó khi vừa vỡ lẽ một điều thắc mắc đã ám ảnh tôi khá lâu.
Đại từ vựng tiếng Nhật Nihongo daijiten khái niệm cây hải đường ở Trung Quốc (haitang) và ở Nhật (kaidô) như sau :Hoa hải đường (pommier sauvage)
“ Cây nhỡ rụng lá, thuộc họ tường vi (rose) trồng làm cây kiểng trong vườn. Hoa nở vào tháng bốn dương lịch, sắc hồng nhạt. Loại có trái giống như quả táo tây, có thể ăn được. Cao từ 2 đến 4 mét ”. Cuốn từ vựng này còn chua thêm là hoa hải đường dùng để làm ví với những người con gái đẹp, đặc biệt quan trọng khi muốn nói lên nét gợi cảm hay vẻ xuân tình. Theo “ Dương Quý Phi truyện ” trong Đường thư, một hôm Đường Minh Hoàng ghé thăm Dương Quý Phi, nghe nàng còn chưa tỉnh giấc, nhà vua bảo : “ Hải đường thuỵ vị túc da ? ”, tức thị “ Hải đường ngủ chưa đủ sao ? ” Trong văn học cổ Trung Quốc, cảnh hoa hải đường trong trận mưa thường dùng để làm ví với dáng vẻ người con gái đẹp mang tâm trạng u sầu. Tên khoa học của cây hải đường là Malus spectabilis; tiếng Anh gọi là flowering cherry-apple (hay Chinese flowering apple, Japanese flowering crab-apple và nhiều tên khác nữa), tiếng Pháp gọi là pommier sauvage
Như vậy tên tiếng Việt của cây camellia/camélia mà từ trước đến nay ta thường gọi lầm là “ hải đường ” đúng ra phải gọi là gì ? Có người gọi camellia/camélia là hoa trà, hay trà hoa. Chẳng hạn, tiểu thuyết La Dame aux camélias của Alexandre Dumas (Dumas fils) trước kia có người dịch là “ Trà hoa nữ ” hay “ Trà hoa nữ sử ”, và từ vựng Việt Anh của soạn giả Bùi Phụng cũng dịch “ trà hoa ” là camellia. Tuy dịch camellia là trà hoa (hay hoa trà) nghe có lý hơn là “ hải đường ”, nhưng theo thiển ý cũng không được ổn cho lắm vì hoa trà chỉ có white color, trong những lúc đó camellia/camélia không chỉ có white color mà còn tồn tại màu hồng và red color. Ta thử xem người Nhật và người Trung Quốc gọi camellia/camélia là gì. Tiếng Nhật gọi cây này là tsubaki, chữ Hán viết là “ xuân ”, gồm chữ bộ “ mộc ” bên trái và chữ “ xuân ” là mùa Xuân bên phải. Chữ “ xuân ” dùng trong nghĩa này nghe quá lạ tai so với người Việt. Người Trung Quốc gọi camellia/camélia là shancha (sơn trà), sơn trà nghe cũng thuận tai và khá sát sao vì cây này cùng họ với cây chè (trà) và sơn trà nên hiểu là cây “ trà dại ” hay một biến thể của cây trà.
Đang phân vân không biết dùng từ nào trong tiếng Việt để dịch camellia/camélia cho thật sát nghĩa, chúng tôi lướt xem Truyện Kiều một lần nữa. Nào ngờ lời giải cho câu vấn nạn của chúng tôi đã có sẵn ngay trong đó : cụ Nguyễn Du trong tác phẩm bất hủ của mình đã và đang dùng hoa “ trà mi ” nhằm ám chỉ nàng Kiều, và trà mi đấy là từ tiếng Việt tương ứng với camellia/camélia.
Nhưng do đâu tất cả chúng ta có thể khẳng định như vậy ? Việt Nam Từ vựng của Hội Khai trí Tiến đức giảng giải về hoa “ trà mi ” như sau : “ Thứ cây, có hoa đẹp, sắc đỏ, hoặc trắng, mà không thơm ”. Trà mi cùng họ với cây chè, có sắc đỏ hoặc trắng, và không có có mùi thơm – đó đấy là những đặc điểm của cây camellia/camélia mà tất cả chúng ta đã đề cập ngay ở đầu bài.
Một điều thú vị và rất đáng để lưu ý : “ trà mi ” là một tên gọi thuần Nôm, không có trong chữ Hán ! Nói một cách khác, thay vì gọi “ sơn trà ” như người Trung Quốc, ta chọn tên “ trà mi ” là cách gọi riêng của người Việt. Trong ấn bản chữ Nôm của Truyện Kiều (bản Lâm Nhu Phu, 1870), hai chữ “ trà mi ” được viết bằng hai chữ Nôm như sau : chữ “ trà ” được viết với bộ “ dậu ” với chữ “ trà ” bên phải, và chữ “ mi ” được viết với bộ “ dậu ” với chữ “ mi ” là cây kê bên phải (từ vựng của Hội Khai trí Tiến đức mượn chữ “ mi ” là lông mày trong chữ Hán để viết chữ “ mi ” tiếng Nôm này). Trong Từ vựng Truyện Kiều, học giả Đào Duy Anh trong phần văn bản viết hai chữ “ trà mi ” là “ trà (đồ) mi ” nhằm gợi ý “ trà mi ” cũng tồn tại thể đọc là “ đồ mi ”, tuy nhiên trong phần “ Từ vựng ” lại giảng giải là “ nước ta có hoa trà mi, nhưng khác với đồ mi của Trung Quốc ”. Theo thiển ý, hai chữ Nôm nói trên chỉ có cách đọc là “ trà mi ” chứ không thể đọc là “ đồ mi ”, vì trong chữ Hán, loài “ cây nhỏ, cành lá có gai, đầu ngày hè nở hoa sắc trắng, hoa nở sau các thứ hoa cây khác ” mà Đào tiên sinh đã giảng giải về “ hoa đồ mi ” trong cuốn Hán Việt từ vựng do tiên sinh soạn, đấy là hoa mâm xôi (Robus rosacfolius) trong tiếng Việt.
Qua nội dung bài viết ngắn ngủi này, Hoa Tươi Văn Nam hy vọng đã chứng minh được rằng cây hải đường mà tất cả chúng ta thường ngỡ là tương ứng với cây camellia/camélia trong tiếng Anh và tiếng Pháp kỳ thực là một loài cây có hoa khác, mang tên khoa học là Malus spectabilis. Mặt khác, tên gọi tiếng Việt của hoa camellia/camélia đúng ra phải là trà mi.