Fellow là gì ? – Tuan V. Nguyen

Mấy hôm nay, có một sự ồn ào chung quanh chữ ‘fellow’, với nhiều ý kiến mà tôi nghĩ là hiểu chưa đủ và lộn lạo. Điều này dễ hiểu vì ở VN không có chức danh fellow, nên không nhiều người hiểu thực chất của chức danh này. Có nhẽ tôi là một trong những người dân trong cuộc (vì tôi có chức danh ‘fellow’), nên xin san sẻ với những bạn ý nghĩa của chữ này.

Tôi hay nói đùa với bè lũ trong các lớp học workshop ở Việt Nam là chức danh fellow diễn giải sang tiếng Việt nó đơn giản và gần gụi lắm. Ở nghĩa đơn giản nhứt, fellow có tức là ‘gã’, ‘thằng cha’ (như ‘He is a nice fellow’ = anh ấy là một gã dễ mến). Chữ fellow còn tồn tại tức là ‘đồng chí’ (hiểu theo nghĩa chữ comrade), hay có khi là ‘đồng bào’ (như trong câu ‘My fellow citizens‘ = Hỡi đồng bào của tôi). Đó là vài ý nghĩa của chữ fellow trong tiếng Anh, mà xuất xứ của nó là từ tiếng Anh cổ ‘feolaga’ vốn có tức là đồng loại (‘one of the same kind’).

Cái nghĩa ‘đồng loại’ này được lan sang (hay ứng dụng) trong mạng lưới hệ thống khoa trường và khoa học thuộc thế giới phương Tây. Khi sang thế giới khoa học, chữ fellow được mang một ý nghĩa trịnh trọng hơn: học giả. Thật ra, trong tiếng Anh, chữ scholar cũng là học giả, nhưng hình như chữ này ngày càng được xem là … già nua. Ở đây là ý nghĩa của chức danh fellow trong thế giới khoa học văn minh:

Nhóm 1: Fellow là thành viên của viện hàn lâm

Ở các nước như Anh và Úc, thành viên của tương đối nhiều viện hàn lâm khoa học được quyền dùng danh xưng là fellow. Những người dân này được bầu, nên có khi người ta dùng danh xưng elected fellow để phân biệt với những thành viên nước ngoài không qua bình bầu. Đây chỉ là chức danh danh dự, không có lương.

Những thành viên này còn có quyền dùng những danh xưng sau tên họ như Fellow of Royal Society (FRS), Fellow of Australian Academy of Science (FAA), Fellow of Academy of Health and Medical Sciences (FHAMS), v.v. Nhìn vào danh xưng người ta biết họ thuộc thứ hạng nào trong bậc thang khoa học.

Hình như ở Nga người ta gọi thành viên viện hàn lâm là ‘academician’ (viện sĩ). Chức danh fellow ở Anh, Úc (và Mĩ?) đây là academician.

Nhóm 2: Fellow là thành viên xuất sắc (elite) của hiệp hội khoa học

Ở một số hiệp hội khoa học lớn, fellow là chức danh dành riêng cho những nhà khoa học có đóng góp xuất sắc và quan trọng trong chuyên ngành. Những người dân này thuộc vào nhóm thiểu số ‘privileged’ (tức lãnh đạo) và có vị thế mạnh hơn những member (hội viên). Ví dụ như hiệp hội loãng xương Hoa Kì ASBMR hay hiệp hội IEEE mỗi năm bình bầu những hội viên xuất sắc để họ được sử dụng danh xưng fellow hay ‘elected fellow‘. Đó cũng chỉ là chức danh danh dự, không có lương.

Trong các hiệp hội y khoa ở Úc (gọi là ‘college’) cũng luôn có những lương y có danh xưng là fellow sau thời điểm họ đã qua một lớp học huấn luyện chuyên ngành.

Nhóm 3: Fellow là nhà khoa học độc lập cấp cao

Trong các ĐH và viện nghiên cứu (như Howard Hughes, WEHI, Garvan, v.v.) các nhà khoa học cấp cao, những người dân mà lương lậu và ngân sách nghiên cứu của họ do một nhà tài trợ khác tài trợ (chớ không lệ thuộc vào viện hay ĐH) được gọi là fellow. Tiền tài trợ cho họ được gọi là fellowship. Những người dân này còn có thể đem cái fellowship đó đi bất kể nơi nào trong nước mà người ta thích, nhưng vì ĐH rất quí họ nên những lúc họ có fellowship thì ĐH thường cho tiền thêm để giữ chân.

Các fellowship này rất ư là cạnh tranh và Gianh Giá vì thường có mức giá trị hàng triệu USD và được xem là award (phần thưởng cho member). Ví dụ như ở Úc, chỉ trong ngành y sinh vật học, mỗi năm có chừng 2000 GS ĐH xin fellowship nhưng chỉ có chừng hơn 100 là được tài trợ. Còn trong các ngành khoa học tự nhiên (ở Úc), mỗi năm cũng luôn có hàng ngàn GS xin fellowship và số thành công chỉ có chừng 200. Đây là chức danh theo nhiệm kì, và mỗi nhiệm kì là 5 năm.

Không phải ai có chức danh fellow đều phải có vị trí như nhau. Trong thực tế, các viện nghiên cứu chia ra nhiều loại fellow: từ Fellow, Senior Fellow, Principal Fellow, và cao nhứt là Senior Principal Fellow hay nước Australia Fellow (hay tương đương Laureate Fellow). Chỉ có nhìn vào chức danh là người ta biết vị trí của nhà khoa học ở thứ hạng nào.

Chức danh fellow trong nhóm này còn tồn tại một ‘ứng dụng’ khác trong việc thu hút nhân tài. Ví dụ như Chánh phủ Úc muốn thu hút các nhà khoa học tài giỏi gốc Úc ở nước ngoài về nước, nhưng các ĐH không có biên chế, thì cách họ làm là tạo ra một lớp học fellowship. Sau đó, họ tổ chức tuyển chọn (hay có khi mời trực tiếp) ứng viên và trao cho họ một fellowship hậu hĩkèm theo chức danh fellow để về Úc thao tác làm việc. Đó cũng đây là cách mà nhà cầm quyền Trung Cộng sử dụng để thu hút nhân tài từ phương Tây.

Nhóm 4: Fellow là nhà nghiên cứu trong ĐH

Ở một số ĐH Úc (không phải tất cả) những người dân chuyên làm nghiên cứu (tức không giảng dạy) thuộc một dự án cụ thể nào đó có danh xưng là fellow. Điều rất lộn lạo là họ cũng luôn có những cấp như Fellow, Senior Fellow, Principal Fellow(nhưng không có nước Australia Fellow). Đây là chức danh có lương.

Tuy nhiên, đây là những chức danh của và do ĐH bổ nhiệm, không qua qui trình tuyển chọn và cạnh tranh cấp quốc gia hay quốc tế như Nhóm 3. Do đó, vị trí khoa học và prestige của nhóm này, tuy có cùng chức danh, nhưng không thể so sánh với Nhóm 3 ở trên.

Nhóm 5: Fellow là nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ

Trong mạng lưới hệ thống khoa học phương Tây, nhất là lãnh vực khoa học tự nhiên và thực nghiệm, một người sau thời điểm tốt nghiệp tiến sĩ thường phải qua một thời đoạn hậu tiến sĩ (postdoc). Hậu tiến sĩ là thời đoạn học nghề, chớ chưa phải là nhà nghiên cứu độc lập. Các tiến sĩ thường phải qua một quá trình cạnh tranh ‘khốc liệt’ để sở hữu một chiếc ghế hậu tiến sĩ.

Lương của tương đối nhiều nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ có thể là từ trường ĐH, từ một tổ chức khoa học, hay hiệp hội khoa học. Do đó, học bổng cho nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ mang tên là postdoctoral fellowship. Dĩ nhiên, này cũng là chức danh có lương nghiêm túc, và có thời hạn (thường là 3-5 năm).

Một số ĐH còn tạo ra những lớp học fellowship cho những nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ để thu hút những ứng viên xuất sắc, những nhà lãnh đạo khoa học tương lai. Ví dụ như ĐH UNSW có lớp học Scientia Fellowship, ĐH UTS có lớp học Chancellor’s Postdoctoral Research Fellowship mà đối tượng người sử dụng là những ứng viên hậu tiến sĩ và ‘đang lên’. Những người dân này ai cũng luôn có ít nhứt 20 bài báo khoa học trên các tập san nổi tiếng sau 5 năm tốt nghiệp tiến sĩ, nên mức độ cạnh tranh rất cao.

Nhóm 6: Fellow là học giả vãng lai

Chức danh fellow còn dành riêng cho những học giả vãng lai, và do đó có chữ visiting fellow. Hai chữ ‘học giả’ ở đây gồm có hậu tiến sĩ, giảng viên, GS, nhưng cũng luôn có thể gồm cả những người dân thành danh dù không có bằng tiến sĩ. Những người dân thành danh này thường là giới chánh trị gia, doanh nhân, nhà báo, nhà hoạt động xã hội, v.v. Những loại visiting fellowship này thường hay thấy trong các viện nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Đây là chức danh vừa mang tính học thuật vừa ngoại giao.

Người Mĩ là bậc thầy của những chức danh ngoại giao này. Khi Chánh phủ Mĩ nhận dạng ra những ngôi sao 5 cánh đang lên ở bất kể nơi nào trên thế giới, họ thường tìm cách thiết lập quan hệ với những người dân đó. Cách họ làm là cấp cho những ĐH một số tiền (gọi là fellowship) và ĐH dùng tiền đó để mời người đang lên đến mức thăm và thao tác làm việc, hay gọi cho oai là ‘nghiên cứu’. Nhưng trong thực tế thì có khi chẳng nghiên cứu gì cả, chỉ có làm một seminar với vài người đến dự (chừng 5-10 người) và thế là xong. Ở Úc cũng luôn có những lớp học này.

Các Visiting Fellow được trả tiền thù lao tượng trưng (chớ không phải lương lậu). Thù lao có thể là 10,000 đến 30,000 USD một năm (tuỳ vào thành phố). Thường thì họ chỉ thao tác làm việc trong một thời kì ngắn (6 tháng đến 12 tháng). Các fellow ngoại giao trong nhóm này sẽ không thể so sánh với những Nhóm 3, 4, 5, vì thực chất bổ nhiệm và cạnh tranh rất khác nhau.

***

Như các bạn thấy chữ fellow có rất nhiều ý nghĩa, từ ‘tầm trung’ đến khoa trường. Fellow có thể là một nhà khoa học cấp hậu tiến sĩ, cũng luôn có thể là nhà khoa học độc lập mạnh hơn nhiều so với hậu tiến sĩ, cũng luôn có thể là người của ĐH liên quan đến một dự án cụ thể, hay cũng luôn có thể là học giả vãng lai và ngoại giao. Do đó, nếu chỉ nói chức danh fellow màkhông có nội hàm thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Chức danh fellow cho hậu tiến sĩ thì rất cạnh tranh (không có thành tích công bố khoa học tốt thì chẳng ai chịu xét), nhưng nếu là loại visiting fellow thì chẳng có cạnh tranh đáng kể.

Còn nếu là loại fellow có trả lương nghiêm túc, thì nguồn trả lương xác định Gianh Giá (prestige). Một GS có fellowship (kèm theo tên) được thẩm định mạnh hơn nhiều so với một GS thông thường. Còn chức danh fellow mang tính danh dự (không lương) thì cái Gianh Giá tuỳ thuộc vào tổ chức là viện hàn lâm hay hiệp hội khoa học.

___________

Tái bút: Có bạn hỏi tôi sự khác biệt giữa ‘fellow‘ và ‘scholar‘ ra sao. Tôi chỉ nói theo một cách theo hiểu biết member thôi, vì có thể sự khác biệt tuỳ địa phương. Scholar hiểu theo nghĩa thường là ‘học giả’, nhưng nó còn tồn tại một nghĩa khác là ‘học trò’ hay ‘sinh viên’. Ví dụ như nghiên cứu sinh tiến sĩ có lúc còn được gọi là scholar, và học bổng họ nhận được gọi là scholarship.

Fellow là người đã qua bậc tiến sĩ hay nếu không có tiến sĩ thì đã thành danh. Họ không phải là sinh viên nữa, mà đã là một nhà nghiên cứu độc lập và trong nhiều trường hợp có thể điều hành một nhóm nghiên cứu. Trong y khoa, fellow là người ở cấp ‘consultant‘, tức họ hành nghề mà không cần có sự giám thị (cấp lương y hành nghề vẫn bị giám sát bởi cấp mạnh hơn).

Do đó, trong học thuật chức danh fellow mạnh hơn scholar.

You May Also Like

About the Author: v1000