> Hướng dẫn cách trì tụng chú Đại bi ngắn gọn
Chú Đại Bi là gì?
Thần Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Người tình Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói trong một pháp hội trước mặt đông đủ các vị Người tình Tát, Thinh văn, Thánh chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma-Ha Ca-Diếp, A-Nan… cùng câu hội, tại núi Người tình Đà Lạc Ca (Potalaka), một hải đảo ở về phía Nam xứ Ấn Độ, được tính như thể nơi mà Đức Người tình Tát Quán Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể tin chắc điều đó bởi vì Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói thân thuộc của Ngài A Nan “Như vậy tôi nghe” cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa ngài A Nan và Đức Thế Tôn đã được ghi lại ở trong kinh.
Trong pháp hội này, Người tình Tát Quán Thế Âm vì tâm đại bi khi đối chiếu với chúng sanh, muốn cho “chúng sanh được an vui, được trừ tất cả những bệnh, được vạn thọ, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng công đức của pháp lành, được thành tựu tất cả những thiện căn, được tiêu tán tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu” mà nói ra Thần Chú này.

Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Người tình Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni
Ngài cho thấy lý do ra đời của Thần Chú như sau: Vào vô lượng ức kiếp về trước, Phật Thiên Quang đãng Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tâm thương tưởng đến chúng sanh nên đã nói ra thần chú Đại Bi và khuyến khích Người tình Tát Quán Thế Âm nên thọ trì tâm chú này để mang đến lợi ích an vui lớn cho chúng sanh trong đời vị lai. Người tình Tát Quán Thế Âm lúc bấy giờ mới ở ngôi sơ địa lúc nghe đến xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Vui mừng trước oai lực của thần chú, Ngài bèn phát đại nguyện: “Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt ngàn tay”.
Ngay tức khắc, Ngài thành tựu ý nguyện. Từ đó, hình ảnh của vị Người tình Tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt trở thành một biểu tượng cho khả năng siêu tuyệt của một vị Người tình Tát mang sứ mệnh vào đời cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh. Ngàn tay, ngàn mắt nói lên cái khả năng biến hóa tự tại, cái dụng tướng vô bờ của thần lực Từ bi và Trí huệ tỏa khắp của Người tình Tát Quán Thế Âm. Ngàn mắt để sở hữu thể chiếu soi vào tất cả mọi cảnh giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt, nâng đỡ, như Đức Phật giảng giải với Ngài A Nan ở trong kinh, “tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh”.
Kinh và Thần Chú Đại Bi sau này đã được ngài Dà-Phạm-Đạt-Ma (Bhagavaddharma: có tức thị Tôn Pháp) một Thiền sư Ấn Độ, du hóa qua Trung Quốc vào niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường dịch và chuyển âm từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa và được Hoà Thượng Thích Thiền Tâm chuyển ngữ qua tiếng Việt. Với oai lực và thiêng liêng đã được chứng minh qua không gian và thời kì, Thần Chú Đại Bi đã được trân trọng trì tụng trong các khoá lễ, các nghi tiết tụng niệm chính của không ít quốc gia theo truyền thống Phật giáo Đại thừa như: Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,…
Chú Đại Bi có ý nghĩa gì?

Muốn đạt đến cứu cánh giác ngộ không thể không thông qua phương pháp thiền định. Nhưng lúc nghe đến nói đến Thiền, một người Phật tử thường nhật khó hình dung ra nổi và nghĩ đến nó như thể một chiếc gì đó mung lung, trừu tượng, kì bí.
Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử.
Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Vì sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều xoá sổ.
Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội cay nghiệt nặng như vậy đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng khi đối chiếu với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng?
Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong này được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều xoá sổ, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng tác động mà còn được như vậy, huống chi là chính người trì tụng?
Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều xoá sổ, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải ghi nhận quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!
Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, khi đối chiếu với người ấy khởi lòng kính cẩn, tôn trọng như Phật.
Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy đó chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy đó chính là tạng quang đãng minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình.
Nên biết người ấy đó chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy đó chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả những môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy đó chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy đó chính là tạng hư vô, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh.
Nên biết người ấy đó chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy đó chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong mồm tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy đó chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại. Nên biết người ấy đó chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy đó chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh.
Nên biết người ấy đó chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng.
Vận dụng Chú Đại Bi vào thiền định
Muốn đạt đến cứu cánh giác ngộ không thể không thông qua phương pháp thiền định. Nhưng lúc nghe đến nói đến Thiền, một người Phật tử thường nhật khó hình dung ra nổi và nghĩ đến nó như thể một chiếc gì đó mung lung, trừu tượng, kì bí. Thậm chí còn Phật tử rất hoang mang vì trong thời đại hiện nay, có rất nhiều loại “thiền” khác nhau xuất hiện trên thị trường, được khai thác nhằm mục tiêu thương mãi hơn là giúp con người đạt đến bờ bến giải thoát, và thỉnh thoảng biến Thiền trở thành một chiếc “mốt” thời thượng làm người ta bối rối và dễ bị mê lầm. Cho nên, để sở hữu thể tu tập đúng hướng, hành giả cần phải có một số nhận thức cơ bản đúng đắn về các loại Thiền Phật giáo.
Tụng Chú Đại Bi có lợi ích gì? Mời các bạn nghe Sư cô Hương Nhũ trả lời vấn đáp Phật pháp: