VNLP

1. Khái niệm

Lời nói của con người là một chuỗi âm thanh được phát ra kế tiếp nhau trong không gian và thời kì. Việc phân tích chuỗi âm thanh ấy người ta nhận ra được những đơn vị của ngữ âm. Khi một người phát ngôn “TP. Hà Nội mùa này vắng những lượng mưa“, tất cả chúng ta nghe được những khúc đoạn tự nhiên trong chuỗi lời nói đó như sau:

Hà / Nội / mùa / này / vắng / những / cơn / mưa

Những khúc đoạn âm thanh này sẽ không thể chia nhỏ hơn được nữa dù tất cả chúng ta có cố ý phát âm thật chậm, thật tách bạch. Điều đó chứng tỏ rằng, đây là những khúc đoạn âm thanh tự nhiên nhỏ nhất lúc phát âm, và được gọi là âm tiết. Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng được phát ra với một thanh điệu, và tách rời với âm tiết khác. Vì vậy, việc nhận ra âm tiết trong tiếng Việt là dễ dàng hơn nhiều so với những tiếng nói Ấn Âu. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng Việt được ghi thành một “chữ“.

2. Cấu trúc của âm tiết Mỗi âm tiết tiếng Việt là một khối hoàn chỉnh trong phát âm. Trên thực tế không có bất kì ai phát âm tách nhỏ cái khối đó ra được trừ những người dân nói lắp. Trong ngữ cảm của người Việt, âm tiết tuy được phát âm liền một hơi, nhưng không phải là một khối ổn định mà có cấu trúc lắp ghép. Khối lắp ghép ấy có thể tháo rời từng phòng ban của âm tiết này để hoán vị với phòng ban tương ứng của ở âm tiết khác. Ví dụ:

tiền đâu —> trước nhất (đảo trật tự âm tiết và hoán vị thanh điệu “`“)

văn minh —> hại điện (hoán vị phần sau “iên” cho “ai“)

nhỉ đay —> nhảy đi (thanh điệu giữ nguyên vị trí cùng với phần đầu “nh” và “đ“)

Quan sát ví dụ trên ta thấy âm tiết tiếng Việt có 3 phòng ban mà người bản ngữ nào thì cũng nhận ra: thanh điệu, phần đầuphần sau. Phần đầu của âm tiết được xác định là Âm đầu, vì ở vị trí này chỉ có một âm vị tham gia cấu trúc. Phần sau của âm tiết được gọi là phần Vần. Người Việt không biết chữ không cảm nhận được cấu trúc của phần vần. Vào lớp 1, trẻ em mở màn “đánh vần”, tức là phân tích, tổng hợp các yếu tố tạo nên vần, rồi ghép với âm đầu để nhận ra âm tiết. Ví dụ:

U + Â + N = UÂN, X + UÂN = XUÂN

Các âm đầu vần, giữa vần và cuối vần (U, Â, N) được gọi là Âm đệm, Âm chínhÂm cuối. Có thể hình dung về cấu trúc âm tiết tiếng Việt trong một mô hình như sau:

Âm tiết

2.1. Âm đầu

Tại vị trí thứ nhất trong âm tiết, âm đầu có chức năng mở đầu âm tiết. Những âm tiết mà chính tả không thu thanh đầu như an, ấm, êm… được mở đầu bằng động tác khép kín khe thanh, sau đó mở ra đột ngột, gây nên một tiếng bật. Động tác mở đầu ấy có mức giá trị như một phụ âm và người ta gọi là âm tắc thanh hầu (kí hiệu: /?/). Như vậy, âm tiết trong tiếng Việt xoành xoạch có mặt âm đầu (phụ âm đầu). Với những âm tiết mang âm tắc thanh hầu như vừa nêu trên thì trên chữ viết không được ghi lại, và như vậy vị trí xuất hiện của nó trong âm tiết là zero, trên chữ viết nó thể hiện bằng sự vắng mặt của chữ viết. Sau đây là Bảng khối hệ thống âm đầu (phụ âm đầu) trong tiếng Việt:

Bảng hệ thống âm đầu

Trong bảng khối hệ thống trên, có thu thanh vị /p/, một âm vị không xuất hiện ở vị trí đầu âm tiết trong các từ thuần Việt. Nhưng do sự xúc tiếp tiếng nói, do nhu cầu học tập cũng như giao lưu văn hoá, khoa học-kĩ thuật… cần phải ghi lại các thuật ngữ, tên dịa đanh, nhân danh nên bảng trên có đưa /p/ vào trong khối hệ thống phụ âm đầu của tiếng Việt. Các âm vị phụ âm đầu được thể hiện trên chữ viết ra làm sao xin xem Bảng âm vị phụ âm.

2.2. Âm đệm

Âm đệm là yếu tố đứng ở vị trí thứ hai, sau âm đầu. Nó tạo nên sự đối lập tròn môi (voan) và không tròn môi (van). Trong tiếng Việt, âm đệm được miêu tả gồm âm vị bán nguyên âm /u/ (xem Bảng âm vị nguyên âm) và âm vị “zero” (âm vị trống). Âm đệm “zero” có thể tồn tại cùng tất cả những âm đầu, không có ngoại lệ. Âm đệm /u/ không được phân chia trong trường hợp sau:

– Nếu âm tiết có phụ âm đầu là âm môi.

– Nếu âm tiết có nguyên âm là âm tròn môi.

Ngoài ra, âm đệm /u/ còn không được phân chia với “g” (trừ goá) và “ư“, “ươ“. Đó là quy luật chung của tiếng Việt: các âm có cấu âm như nhau hoặc gần nhau không được phân chia cùng nhau. Trên chữ viết, âm đệm “zero” thể hiện bằng sự vắng mặt của chữ viết, âm đệm /u/ thể hiện bằng chữ “u” và “o“.

2.3. Âm chính

Âm chính đứng ở vị trí thứ ba trong âm tiết, là hạt nhân, là đỉnh của âm tiết, nó mang âm sắc chủ yếu của âm tiết. Âm chính trong tiếng Việt do nguyên âm đảm nhiệm. Nguyên âm của tiếng Việt chỉ có chức năng làm âm chính và nó không bao giờ vắng mặt trong âm tiết. Vì mang âm sắc chủ yếu của âm tiết nên âm đó là âm mang thanh điệu.

Có nhiều ý kiến khác nhau về số lượng âm chính trong tiếng Việt. Nhưng nhìn chung ý kiến nhận định rằng tiếng Việt có 16 nguyên âm chính (gồm 3 nguyên âm đôi, 13 nguyên âm đơn, trong đó có 9 nguyên âm đơn dài và 4 nguyên âm đơn ngắn) là có cơ sở. Sau đây là khối hệ thống nguyên âm chính (xem thêm Bảng âm vị nguyên âm):

Bảng âm vị nguyên âm

2.4. Âm cuối

Âm cuối có vị trí cuối cùng của âm tiết, nó có chức năng kết thúc một âm tiết. Do vậy khi có mặt của âm cuối thì âm tiết không có khả năng phối hợp thêm với âm (âm vị) nào khác ở phần sau của nó. Ví dụ: trong “cúi“, thì “i” là âm cuối kết thúc âm tiết nên sau nó không thêm gì cho âm tiết lại. Trái lại, trong “quý“, do “y” không phải là âm cuối vì có thể thêm vào sau nó một âm cuối như “t” trong “quýt“, “nh” trong “quýnh“, v.v… Những âm tiết còn tồn tại khả năng thêm vào âm cuối như “quý” ở trên, trong thực tế vẫn được kết thúc như một âm tiết hoàn chỉnh. Bởi vì ở vị trí cuối (vị trí kết thúc âm tiết) lúc ấy có mặt một âm cuối, được gọi là âm cuối zero đối lập với tất cả những âm cuối khác.

Âm cuối là bán nguyên âm /u/ (ngắn) có âm sắc trầm chỉ được phân chia sau các nguyên âm bổng và trung hoà, trừ nguyên âm “ơ” ngắn, ví dụ trong níu, áo, bêu diếu, cầu cứu… Bán nguyên âm cuối /i/ (ngắn) có âm sắc bổng chỉ được phân chia sau các nguyên âm trầm và trung hoà, ví dụ trong tôi, chơi, túi, gửi, lấy…

Âm cuối zero là một âm vị trống nên không được biểu thị bằng chữ viết. Nó đối lập với 6 âm cuối ở bảng trên, giống như âm đệm zero đối lập với âm đệm /u/, âm tắc thanh hầu /?/ đối lập với những phụ âm khác trong khối hệ thống các phụ âm đầu.

Sau đây là khối hệ thống các âm cuối trong tiếng Việt (xem thêm Bảng âm vị phụ âm):

Âm cuối

3. Thanh điệu

Thanh điệu là một yếu tố thể hiện độ cao và sự chuyển biến của độ cao trong mỗi âm tiết. Mỗi âm tiết tiếng Việt nhất thiết phải được thể hiện với một thanh điệu. Thanh điệu có chức năng phân biệt vỏ âm thanh, phân biệt nghĩa của từ.

Có nhiều ý kiến khác nhau về vị trí của thanh điệu trong âm tiết. Nhưng ý kiến nhận định rằng thanh điệu nằm trong cả quá trình phát âm của âm tiết (nằm trên toàn bộ âm tiết) là đáng tin cậy nhất về vị trí của thanh điệu. Sau đây là khối hệ thống các thanh điệu trong tiếng Việt:

(Nguồn: Trung tâm Từ vựng học)

You May Also Like

About the Author: v1000